Hôm nay tôi gởi tới quý anh chi bài biên khảo về câu chuyên tình của Huyên Trân Công Chúa.
Bài này đạ đăng trên Dũng Lạc và một vài tờ báo khác đăng lại.
Theo một số bạn hữu và một vài nhà tham khảo thì họ cho đây là một cái nhìn rất mới về một
câu truyện lịch sử đã được chính sử ghi lại nhưng lại mang tính huyền thọai để rồi cho tới mãi hôm nay những tác phẩm nghệ thuật vẫn còn quyến rũ rất nhiều những tâm hồn hòai cổ
Tôi nghĩ qúy anh chi một số ở Canada và Việt Nam chưa có dịp đọc nêu post lên đây mời qúy anh chi đọc và góp ý cho những gì còn thiếu sót.
Xin đa tạ.
ND
Hoàng Hậu PARAMECVARI
Nguyễn Ngọc Danh
Từ bao nhiêu thế hệ và cho tới hôm nay, tất cả mọi đứa bé được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương đều được học về lịch sử của nước mình bằng hai phương thức : Truyền khẩu và sách vở. Trong đó thường được nghe,được đọc những chuyện tình sử cao đẹp hoặc bi thương của các danh nhân, anh hùng, liệt nữ. Trong giòng lịch sử nước ta cuộc tình vương giả vào thời đại nhà Trần giữa Vua Champ Chế Mân ( Jaya Simhavarnam III ) và Công chúa Trần Huyền Trân được nhắc nhở, thêu dệt nhiều nhất và cũng tốn không biết bao nhiêu giấy mực trong thơ văn của cả hai dân tộc Việt - Champ ( Chiêm Thành ).
Tôi cũng như hàng chục triệu đứa bé được nuôi dưỡng và lớn lên theo giòng sinh mênh nổi trôi của dân tộc. Một dân tộc chịu quá nhiều bức bách, nhục nhã, khổ đau. Một dân tộc mà theo ông Passi nhận định : “ Họ vừa ăn vừa chạy, vừa chiến đấu để bảo vệ, mở mang bờ cõi. Họ không có thời giờ để nghĩ ngơi. Thảng hoặc nếu có thì cũng chỉ vừa đủ để họ mài nhọn lưỡi cày để khai khẩn thêm đất đai và mài nhọn mũi giáo để chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ trong tương lai. Tiền nhân của họ chỉ nghĩ tới thanh bình, hạnh phúc cho dân tộc. Do đó trong suốt chiều dài của lịch sử, giang sơn của họ không thấy một kiến trúc hay một công trình đồ sộ nào. Vì tiền nhân của họ đã nhận thức được rằng công trình kiến trúc càng đồ sộ bao nhiêu, to lớn bao nhiêu thì máu xương và đau khổ của đồng bào họ cũng chất chồng cao tới bấy đó. Hãy nhìn đi! nơi nào có nhiều cung điện xa hoa tráng lệ, đền đài cao ngất rực rỡ thì chúng ta biết ngay nơi đó là chỗ để lại dấu vết đậm nét nhất của một thời kỳ nô lệ. Chính mỗi viên gạch, mõi vữa hồ nơi ấy là những giọt mồ hôi, nước mắt, là xương thịt và thống khổ của người dân vô tội “.
Theo ông, chúng ta là con dân của nước Việt đừng bao giờ mang mặc cảm vì quốc gia mình không có những đền đài nguy nga tráng lệ, nhưng hãy hãnh diện vì tiền nhân chúng ta đã sáng suốt, họ không vì cái hào nhoáng vật chất ấy mà để lại cái di hại muôn đời cho con cháu, nếu không muốn nói là hiểm họa diệt vong. Cái gương của Chiêm Thành vẫn còn đó. Chính vì vậy mà chúng ta đã thoát khỏi bị diệt vong trong suốt thời gian bi đô hộ 1000 năm bởi dân tộc Trung Hoa, một dân tộc hùng manh và có nền văn hóa rực rỡ nhất thời trung cổ. Một nền văn hóa có một sức thấm thấu đến lạ lùng mà ngay những kẻ chiến thắng và cai trị họ như Mông Cổ, Mãn Châu cùng đã bị họ đồng hóa.
Và lẽ dĩ nhiên tôi cũng đồng thời được hun đúc bằng một thứ tình yêu chân thành, lãng mạn đầy huyền thoại của tổ tiên. Từ đó theo tuổi đời lớn lên tôi được đọc, được nghe kể nhiều truyện tình sử. Trong đó mối tình vương giả Việt Chiêm đã để lai trong tôi một nỗi băn khoăn, ray rứt. Trong thâm tâm tôi luôn nghĩ rằng hình như có một cái gì ẩn khuất phía sau câu truyện Huyền Trân – Chế Mân . Nên tôi có một ý định lục lọi lại ký ức và đọc lại một số những chuyện tình sử của cả Trung Hoa và Việt Nam trước là để thỏa mãn tính tò mò và sau đó để xem mình có thể tìm ra được những ẩn nghĩa, uẩn khúc nào chăng. Chính điều này mà bài viết hôm nay đang được nằm trong tay quý độc giả.
Theo chính sử : Vua Trần Nhân Tôn sau khi đập tan hai cuộc xâm lăng của đại đế quốc Mông Cổ. Vào năm Quý Tỵ (1293) ngài nhường ngôi cho con là thái tử Trần Thuyên tức vua Trần Anh Tôn để lên làm Thái Thuợng Hoàng. Ngài về nghỉ tại Thiên Trường , nơi an dưỡng của vua chúa nhà Đông A. Ngài ngộ đạo quy y rồi vào tu tại chùa Võ Lâm thuộc phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Sau đó về Yên Tử Sơn cùng sư phụ là Quốc sư thiền sư Phù Vân lâp lên phái thiền tông Việt Nam, thường được gọi phái Thiền Trúc Lâm. Mặc dù đã quy y cửa phật, nhưng trái tim từ bi Bồ Tát của ngài vẫn còn lo tới sự an lạc và hạnh phúc lâu dài cho quê hương dân tộc. Đứng trước nạn lầm than nô lệ mà phương Bắc Trung Quốc lúc nào cũng muốn đặt lên đầu lên cổ của dân tộc. Cái kế sách hay và lâu bền nhất mà ngài phải nghĩ tới là nên hòa hoãn với quốc gia lân bang Champa (Chiêm Thành) ở phía Nam, một quốc gia cũng có quá nhiều cuộc tranh chấp đầy xương máu của hai dân tộc. Nên vào năm 1301 ngài lên đường hành trình về phương Nam đến đât Chiêm. Trong cuộc hội ngộ giữa Thiền sư Thái thượng hoàng Đại Việt và Vua Chiêm ngài hứa gả người con gái út là Huyền Trân công chúa cho Vua Chế Mân. Từ đó Chế Mân đã dâng rất nhiều vàng bạc, châu báu làm sính lễ cho cuộc hôn nhân, nhưng Trần triều nhiều người đã không bằng lòng về cuộc hôn nhân này nên nhất quyết từ chối. Việc dằng co này mãi cho tới sáu năm sau (1306) vua Chế Mân dâng thêm hai châu Châu Ô và Châu Lý để làm sính lễ khi ấy nhà Trần mới bằng lòng. Mùa xuân năm 1306 Huyền Trân công chúa lên đường về Chiêm Thành. Khi qua Chiêm, Huyền Trân được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Đọc tới đoạn lịch sử này hồn tôi trào dâng lên niềm cảm xúc xâu xa cho những tâm hồn vì đại nghĩa của dân tộc nên đã làm bài thơ:
TÌNH VỀ NƯỚC NON
Lên đền hỏi thần Kim Quy
Dấu xưa lông ngỗng? - Đường về Cổ Loa?
Mỵ Châu hận nước thù nhà
Nhát gươm Thục Đế - Máu hòa biển Đông
Phong Châu hỏi chú tiểu đồng :
Đường về cổ miếu bên giòng Hát Giang?
Dưới trăng hồn khách mơ màng
Tiếng quân Đông Hán - Bóng nàng Trưng Vương.
Hoa xuân rơi trước Phật đường
Thiền sư quên hết phố phường - hoàng cung
Tình riêng thả xuống vô cùng
Chỉ còn tình nước bận lòng quân vương
Trống chiêng võng lọng lên đường
Đưa người về nẻo dặm Trường Sơn xa
Huyền Trân ơi! Đất Champa
Hiên chùa Yên Tử hồn cha nghìn trùng
Cuộc tình Việt Chiêm chưa được một năm thì vào tháng 5 năm 1307 Chế Mân băng hà. Cái chết này theo một số bài viết của người Chăm trong các đặc san tôi đang có thì nó đầy bí ẩn và đáng nghi ngờ. Và lẽ dĩ nhiên điều nghi ngờ ấy họ nhắm vào Huyền Trân, một con dâu ngoại tộc. Lịch sử không để lại dấu vết, nên không có một chút ánh sáng nào soi rọi vào thì sự kiện lịch sử chỉ là một số giả thuyết đầy tính cách nghi ngờ mà thôi. Họ có quyền đặt dấu hỏi nhưng Đúng hay Sai chẳng có sách vở và sự kiện nào chứng minh điều này. Theo tục lệ Chiêm Thành, chi nhánh thờ thần Shiva của người Chiêm cũng là tục lệ chung của giáo phái Bàlamon khi vua chết thì phải hỏa thiêu và các hoàng hậu cũng phải lên dàn hỏa với vua cùng một lúc để thể hiện lòng trung thành, tục lệ này khi du nhập vào vương quốc Chiêm Thành có thay đổi đôi chút ( Tôi sẽ trình bày sau)
Được tin này vua Trần Anh Tôn (anh ruột của Huyền Trân) không muốn em mình bị thiêu nên vào tháng 10 năm ấy sai Trần khắc Chung vào tìm cách giải cứu. Cuộc giải cứu thành công, nhưng không biết vì lý do gì mà thuyền của hai người phải mất một thời gian khá lâu mới về tới Thăng Long. Tới đây thì sự việc qua các sử sách cũng như lời truyền khẩu bắt đầu có những di biệt. Chúng ta thử duyệt xét lại những cuốn lịch sử tiêu biểu:
- Theo Việt Nam Sử Lược của Trần trong Kim. Vì là cuốn sử lượt nên ông chỉ kể sơ lược về việc gả Huyền Trân cho Chế Mân mà không đề cập tới chuyện tình và khoảng thời gian Trần K Chung và Huyền Trân trở về cố quốc.
-Theo Việt Sử Tân Biên của sử gia Phạm Văn Sơn phần chú thích: Bên lề lịch sử, ta còn thấy kể chuyên tình duyên giữa Trần K Chung và Huyền Trân trước khi nàng vượt giải Hoành Sơn sang Chiêm quốc. Sau này Trần K Chung được dịp sang thi hành một kế đưa Huyền Trân về nước đáng nhẽ nàng phải lên dàn hỏa để trọn nghĩa cùng quốc vương theo phong tục bản quốc (Phong tục này là phong tục của tất cả mọi dân tộc theo văn hóa Ấn Độ) Trân K Chung cùng nàng đã lênh đênh trên mặt nước, và con thuyền đến hơn một năm mới trở về Thăng Long, kể ra cuộc hành trình không đầy ba tháng bằng đương biển từ Đồ Bàn (Bình Định,Qui Nhơn) tới kinh đô Thăng Long nên cũng bị nghi ngờ là có chuyện Hoa xưa ong cũ ( VSTB tr 275 phần chú thích).
- Theo sách Toàn Thư và Cương Mục thì Trân K Chung và Huyền Trân tư thông với nhau trên đường về nên thuyền của hai người đã loanh quanh, chậm chạp rất lâu mới về tới Thăng Long.
- Theo cuốn những Kỳ Án trong Việt sử của sử gia Trần Gia Phụng thì khi hay tin Chế Mân chết Vua Trần Anh Tôn lo ngại cho số phận em gái mình, nên tháng 10 năm đó sai Trần K Chung qua Chiêm kiếm cách giải cứu Huyền Trân. Qua triều đình Chiêm Thành viếng tang, Trần K Chung nói rằng: Công chúa hỏa táng thì không có ai làm chủ đàn chay chi bằng cho công chúa ra ngoài bãi biển chiêu hồn chúa công (chỉ Chế Mân) cùng về, lúc ấy sẽ lên dàn thiêu là tiên hơn cả. Người Chiêm thành tin thật, đồng ý đưa Huyền Trân ra bãi biểu làm chủ lễ chiêu hồn. Chính lúc này thuyền của Đại Việt đến cướp Huyền Trân đưa về Nước.(NKÁTVS tr 35)
Câu chuyên này càng đi vào chi tiết chúng ta càng thấy nhiều mâu thuẫn. Để tìm hiểu rõ chân tướng của sự thực, chúng ta cần phải tháo gỡ từng mối một của những câu văn không rõ ràng, đôi khi khá hàm hồ. Xét lại những câu chuyên bên lề, những vần thơ qua cửa miệng của dân gian tôi cũng nhận thấy hầu như thiếu hẵn sự trung thực, hoặc có thể có ngầm ý thật thâm hiểm của kẻ thù muốn gây chia rẻ và đào sâu mối hận thù giữa hai dân tộc mà chúng ta hoàn toàn không nhận thức được. Rồi cho mãi tới hôm nay cái điều xót xa, cay đắng ấy vẫn được mọi người Việt chúng ta chấp nhận một cách đương nhiên, vô tội vạ ,không thắc mắc, không bàn cãi. Để đem lại sự trung thực, giảm bớt đi sự hiềm kích của hai dân tộc, rửa đi cái vết nhơ nhục nhã cho Trần Khắc Chung và Huyền Trân người con gái trinh trắng thơ ngây, vị công chúa và cũng là hoàng hậu bạc phước, người con yêu của hai dân tộc Việt Chiêm đã vì hiếu vì dân tộc đem tình yêu và thân xác mình làm khí cụ bình yên cho trăm họ. Nhưng theo tinh thần trình bày trong những sách nêu trên Huyền Trân và Trần K Chung chính là những kẻ gian phu dâm phụ. Cái nhơ nhuốc mà Toàn Thư và Cương mục đổ lên đầu Huyền Trân và Trần Khắc Chung cũng là một điều xỉ nhục cho quốc thể của hai dân tộc Việt Chiêm. Nguồn sử liệu này từ đâu mà có? Hay cũng chỉ là những ước đoán vu vơ, nhưng lại được đưa vào chính sử với những câu văn chắc như đinh đóng cột. Chân giả như thế nào? Cái luồng gió đủ lực làm tan đi đám bụi mù này là phải tìm hiểu cho ra Trần Khắc Chung là ai? Tuổi tác, thân phận ra sao? Việc đưa Huyền Trân về như thế nào.?
TRẦN KHẮC CHUNG :
Trần Khắc Chung tên thật là Đỗ Khắc Chung, người làng Giáp Sơn, tỉnh Hải Dương. Khi quân Nguyên xâm lấn nước ta lần thứ hai năm 1285. Ô Mã Nhi đem môt cánh quân thọc thẳng vào Thăng Long, và giải cứu được ba sứ giả nhà Nguyên đang bị trói và cầm tù, trong đó có một người đã bi chết. Quá tức giận và để trả thù Ô Mã Nhi ra lịnh tàn sát hết tất cả mọi người trong thành Thăng long không trừ một ai dù chỉ là một em bé. Tin tức này lọt tới tai vua quan nhà Trần làm rúng động tâm hồn vua Trần Nhân Tôn, ngài vốn là người có một tâm hồn nhân hậu thương yêu dân chúng như con mình. Chính vì vậy nên tên miều hiệu của ngài là Trần Nhân Tôn. Đứng trước sự việc đau lòng này vì quá thương người dân vô tội nên ngài có ý xin hàng để cứu mạng sống cho dân chúng. Khi đưa ý kiến này hỏi Trần Hưng Đạo. Hưng Đạo Vương trả lời : “Bệ hạ vì thương dân mà nghĩ vậy, còn sơn hà xã tắc thì sao. Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã” . Được sự trợ giúp bởi tinh thần quật cường và lòng yêu nước vời vợi của một chủ soái vừa là nhạc gia của mình ngài bỏ ý định đầu hàng. Nhưng để thi hành kể hoãn binh và thăm dò tình hình địch, ngài muốn sai một người qua trại quân Nguyên thương lượng. Đỗ Khắc Chung tình nguyện ra đi. Khắc Chung đối đáp thật cứng cỏi với Ô Mã Nhi. Vua Nhân Tông rất hài lòng, nên sau khi chiến thắng quân Nguyên, Trần Nhân Tôn ban cho ông quốc tính (họ nhà vua). Từ đó ông được gọi là Trần Khắc Chung. Trần Khắc Chung được thăng quan tiến chức dần dần. Tháng 12 năm 1299 ông lên làm Đại an phủ sứ kinh đô, tức vị quan đứng đầu Lộ kinh thành Thăng Long.
Qua đôi giòng sử liệu trên năm 1258 là một dấu mốc rất quan trọng của lịch sử không thể nhầm lẫn được. Vậy 1258 Trần Khắc Chung tình nguyện sang thuyết dụ quân Nguyên cũng không thể sai lầm được. Vào năm 1285, Trần Khắc Chung có thể chỉ là một vị quan nhỏ như Cưủ Phẩm mà ta thường gọi là quan hạt mè trong triều đình. Nhưng để đảm trách công việc đi thuyết dụ một đại kình địch chắc chắn ông phải là một quan văn có tài ăn nói, đầu óc đầy mưu trí đảm lược, và để tỏ lòng kính trọng đối phương, kẻ thuyết khách phải là một vị quan ít nhất từ 30 hoặc 40 tuổi trở lên. Nếu giải thuyết này được chấp nhận thì ta lấy năm 1285 trừ đi số tuổi của ông khi đó là 30 tuổi (1285- 30 = 1255) tức ông sinh năm 1255. Hoặc Trần Khắc Chung khi đó vào khoảng 40 tuổi. Lấy năm 1285 trừ đi 40 tuổi (1285-40 = 1245 ) tức ông sinh năm 1245 Như vậy Đỗ Khắc Chung sinh vào khoảng giữa 1255 và 1245 trở lên. Tới đây chúng ta tạm chấp nhận năm sanh của Trần Khắc Chung ở khoảng giữa của 1245 và 1255 là 1250.
Để tìm hiểu xem Trần Khắc Chung có phải là người tình của Huyên Trân công chúa trước khi đi lấy chồng hay không? hoặc việc thông dâm trên đường về Đại Việt theo như chính sử và những chuyện bên lề lịch sử thực hư thế nào? Chúng ta cũng thử tìm hiểu xem tuổi tác, của công chúa Huyền Trân có xứng đôi vừa lứa với Trần Khắc Chung để trở thành môt cặp tình nhân hay không? Chính những câu trả lời có mức độ khả tín cao, xác đáng cho những nan đề trên mới vén lên được bức màn tăm tối đã che khuất từ bao nhiêu thế hệ.
TRẦN HUYỀN TRÂN:
Theo tinh thần và phong tục tập quán Việt Nam, nhất là vào các thời đại phong kiến, một người con gái đi lấy chồng phải theo sự quyết định và xếp đặt của cha mẹ và thường là cô con gái ấy không quá 20 tuổi, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Nếu không muốn nói tới hủ tục tảo hôn là gả con rất sớm khoảng 12 tới 14 tuổi. Như vậy việc triều Trần từ chối lời câu hôn của Chế Mân cũng có thể lúc ấy Huyền Trân còn quá trẻ khỏang 12 hoặc 14 tuổi, nên phải đợi cho tới năm 1306 khi nàng tới tuổi lý tưởng 18 tuổi mới lập gia đình. Có thể vì điều này mà Chế Mân hiểu lầm triều Trần hoàn toàn không muốn gả Huyền Trân cho mình nên mới đem dâng thêm hai châu Ô và Lý. Như vậy khi Huyền Trân về Chiêm Thành vào năm 1306 Nàng đang vào lứa tuổi trăng tròn 18 hoặc 20 tuổi. Lấy năm 1306 là năm Huyền Trân đi lấy chồng trừ đi 18 tuổi (1306- 18 = 1288 ) tức Huyền Trân sinh năm 1288. Hoặc lấy năm 1306 trừ đi 20 tuổi (1306-20 = 1286) tức Huyền Trân sinh năm 1286. Chúng ta tạm chấp nhận Huyền Trân sinh năm 1286.
Đem so sánh năm sinh của của hai người: 1286 của Trần H Trân và 1250 của Trân K Chung, chúng ta làm một phép tính trừ : 1286-1250 =36 . Tới đây chúng ta thấy Trần Khắc Chung hơn Huyền Trân tới 36 tuổi tức hơn tới 03 giáp (12x3=36). Vậy khi Huyền Trân ở cái tuổi trăng tròn và cũng vừ lúc đi lấy chồng là lúc 18 tuổi thì Trần khắc Chung đã 54 tuổi rồi (36+18 = 54 ). Với tuổi tác cách biệt như vậy và chỉ là một vị quan không quá quan trọng của triều đình, tuối tác của Trần Khắc Chung xứng đáng là bậc cha chú chứ làm sao là người tình của một công chúa non trẻ cành vàng lá ngọc như Huyền Trân. Việc vua Trần Anh Tôn ( Anh ruột của Huyền Trân ) cử Trần k. Chung vào Chiêm Thành để đưa Huyền Trân về cố quốc là chỉ tin ông là một nhà thuyết khách giỏi và cơ trí để có thể xoay chuyển thế cuộc giống như Thượng hoàng Trần Nhân Tôn ngày trước (1285) đã cử ông đi thuyết khách quân Nguyên mà thôi, chứ không phải vì Trần Khắc Chung là người tình cũ của Huyền Trân như truyền thuyết nói. Như vậy cái truyền thuyết và sử liệu cho rằng Trần Khắc Chung là người tình của Huyền Trân công chúa trước khi đi lấy chồng và thông dâm với nhau trên đường vượt biển trở về cố quốc theo thiển kiến của tôi là hoàn toàn sai lạc, không thể nào chấp nhận được.
Giả thuyết thứ hai :
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Trần Khắc Chung là người tình của Huyền Trân như các sử sách đã ghi thì nàng cùng lắm chỉ thua ông 10 tuổi. Như vậy năm sinh của Huyền Trân sẽ là : Lấy năm sinh của Trần Khắc Chung công thên 10 năm nữa ( 1250 + 10=1260) Vậy năm sinh của Huyền Trân là 1260.
Sử sách ghi chép rất rõ ràng năm mùa Xuân năm 1306 Huyền Trân lên đường về Chiêm Thành. Lấy năm 1306 là năm đi lấy chồng trừ đi 1260 là năm sanh ( 1306-1260=46 ). Kết quả cho chúng ta thấy theo thuyết của các sử gia mãi cho tới 46 tuổi Huyền Trân mới đi lấy chồng. Trời ơi! Chúa Phật ơi! Một công chúa cành vàng lá ngọc mà mãi tới gần 50 (năm mươi) cái xuân xanh mới đi lấy chồng. Hơn nữa sự quyết định này do một vị thượng hoàng tài trí và đạo đức, Ngài không thể hứa gả một công chúa già nua cho một vị quân vương nước Chiêm Thành, một xứ sở không thiếu gì những giai nhân tuyệt sắc. Với cái thời xa xưa ấy , ông vua là ông trời của một nước, muốn lấy ai thì lấy, muốn giết ai thì giết mà đi xin cưới một cô gái Việt đã 46 tuổi rồi. Xin nhường quyền phán xét cho độc giả!
Qua đôi giòng sử liệu trên năm 1258 là một dấu mốc rất quan trọng của lịch sử không thể nhầm lẫn được. Vậy 1258 Trần Khắc Chung tình nguyện sang thuyết dụ quân Nguyên cũng không thể sai lầm được. Vào năm 1285, Trần Khắc Chung có thể chỉ là một vị quan nhỏ như Cưủ Phẩm mà ta thường gọi là quan hạt mè trong triều đình. Nhưng để đảm trách công việc đi thuyết dụ một đại kình địch chắc chắn ông phải là một quan văn có tài ăn nói, đầu óc đầy mưu trí đảm lược, và để tỏ lòng kính trọng đối phương, kẻ thuyết khách phải là một vị quan ít nhất từ 30 hoặc 40 tuổi trở lên. Nếu giải thuyết này được chấp nhận thì ta lấy năm 1285 trừ đi số tuổi của ông khi đó là 30 tuổi (1285- 30 = 1255) tức ông sinh năm 1255. Hoặc Trần Khắc Chung khi đó vào khoảng 40 tuổi. Lấy năm 1285 trừ đi 40 tuổi (1285-40 = 1245 ) tức ông sinh năm 1245 Như vậy Đỗ Khắc Chung sinh vào khoảng giữa 1255 và 1245 trở lên. Tới đây chúng ta tạm chấp nhận năm sanh của Trần Khắc Chung ở khoảng giữa của 1245 và 1255 là 1250.
Để tìm hiểu xem Trần Khắc Chung có phải là người tình của Huyên Trân công chúa trước khi đi lấy chồng hay không? hoặc việc thông dâm trên đường về Đại Việt theo như chính sử và những chuyện bên lề lịch sử thực hư thế nào? Chúng ta cũng thử tìm hiểu xem tuổi tác, của công chúa Huyền Trân có xứng đôi vừa lứa với Trần Khắc Chung để trở thành môt cặp tình nhân hay không? Chính những câu trả lời có mức độ khả tín cao, xác đáng cho những nan đề trên mới vén lên được bức màn tăm tối đã che khuất từ bao nhiêu thế hệ.
TRẦN HUYỀN TRÂN:
Theo tinh thần và phong tục tập quán Việt Nam, nhất là vào các thời đại phong kiến, một người con gái đi lấy chồng phải theo sự quyết định và xếp đặt của cha mẹ và thường là cô con gái ấy không quá 20 tuổi, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt. Nếu không muốn nói tới hủ tục tảo hôn là gả con rất sớm khoảng 12 tới 14 tuổi. Như vậy việc triều Trần từ chối lời câu hôn của Chế Mân cũng có thể lúc ấy Huyền Trân còn quá trẻ khỏang 12 hoặc 14 tuổi, nên phải đợi cho tới năm 1306 khi nàng tới tuổi lý tưởng 18 tuổi mới lập gia đình. Có thể vì điều này mà Chế Mân hiểu lầm triều Trần hoàn toàn không muốn gả Huyền Trân cho mình nên mới đem dâng thêm hai châu Ô và Lý. Như vậy khi Huyền Trân về Chiêm Thành vào năm 1306 Nàng đang vào lứa tuổi trăng tròn 18 hoặc 20 tuổi. Lấy năm 1306 là năm Huyền Trân đi lấy chồng trừ đi 18 tuổi (1306- 18 = 1288 ) tức Huyền Trân sinh năm 1288. Hoặc lấy năm 1306 trừ đi 20 tuổi (1306-20 = 1286) tức Huyền Trân sinh năm 1286. Chúng ta tạm chấp nhận Huyền Trân sinh năm 1286.
Đem so sánh năm sinh của của hai người: 1286 của Trần H Trân và 1250 của Trân K Chung, chúng ta làm một phép tính trừ : 1286-1250 =36 . Tới đây chúng ta thấy Trần Khắc Chung hơn Huyền Trân tới 36 tuổi tức hơn tới 03 giáp (12x3=36). Vậy khi Huyền Trân ở cái tuổi trăng tròn và cũng vừ lúc đi lấy chồng là lúc 18 tuổi thì Trần khắc Chung đã 54 tuổi rồi (36+18 = 54 ). Với tuổi tác cách biệt như vậy và chỉ là một vị quan không quá quan trọng của triều đình, tuối tác của Trần Khắc Chung xứng đáng là bậc cha chú chứ làm sao là người tình của một công chúa non trẻ cành vàng lá ngọc như Huyền Trân. Việc vua Trần Anh Tôn ( Anh ruột của Huyền Trân ) cử Trần k. Chung vào Chiêm Thành để đưa Huyền Trân về cố quốc là chỉ tin ông là một nhà thuyết khách giỏi và cơ trí để có thể xoay chuyển thế cuộc giống như Thượng hoàng Trần Nhân Tôn ngày trước (1285) đã cử ông đi thuyết khách quân Nguyên mà thôi, chứ không phải vì Trần Khắc Chung là người tình cũ của Huyền Trân như truyền thuyết nói. Như vậy cái truyền thuyết và sử liệu cho rằng Trần Khắc Chung là người tình của Huyền Trân công chúa trước khi đi lấy chồng và thông dâm với nhau trên đường vượt biển trở về cố quốc theo thiển kiến của tôi là hoàn toàn sai lạc, không thể nào chấp nhận được.
Giả thuyết thứ hai :
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Trần Khắc Chung là người tình của Huyền Trân như các sử sách đã ghi thì nàng cùng lắm chỉ thua ông 10 tuổi. Như vậy năm sinh của Huyền Trân sẽ là : Lấy năm sinh của Trần Khắc Chung công thên 10 năm nữa ( 1250 + 10=1260) Vậy năm sinh của Huyền Trân là 1260.
Sử sách ghi chép rất rõ ràng năm mùa Xuân năm 1306 Huyền Trân lên đường về Chiêm Thành. Lấy năm 1306 là năm đi lấy chồng trừ đi 1260 là năm sanh ( 1306-1260=46 ). Kết quả cho chúng ta thấy theo thuyết của các sử gia mãi cho tới 46 tuổi Huyền Trân mới đi lấy chồng. Trời ơi! Chúa Phật ơi! Một công chúa cành vàng lá ngọc mà mãi tới gần 50 (năm mươi) cái xuân xanh mới đi lấy chồng. Hơn nữa sự quyết định này do một vị thượng hoàng tài trí và đạo đức, Ngài không thể hứa gả một công chúa già nua cho một vị quân vương nước Chiêm Thành, một xứ sở không thiếu gì những giai nhân tuyệt sắc. Với cái thời xa xưa ấy , ông vua là ông trời của một nước, muốn lấy ai thì lấy, muốn giết ai thì giết mà đi xin cưới một cô gái Việt đã 46 tuổi rồi. Xin nhường quyền phán xét cho độc giả!
GIẢI CỨU:
Khi Chế Mân qua đời hoàng hậu Paramecvari tức công chúa Huyền Trân có phải lên dàn hỏa hay không.? Dẫn chứng cho việc này tôi xin đưa ra hai bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng Huyền Trân không bị lên dàn hỏa như chúng ta tưởng.
Thứ nhất : Theo sử gia Trần Gia Phụng một sử gia rất khả tín đang được nhiều người ái mộ đã trình bày trong cuốn Những Kỳ Án Trong Việt Sử : vào tháng 5 năm đinh mùi 1307 vua Chế Mân từ trần. Vì quá thương em, Trần Anh Tôn gởi Trần K Chung qua Chiêm vào tháng 10 năm ấy, kiếm cách cứu Huyền Trân. ( NKATVS trg 35)
Dù là một vì vua, Chế Mân đã từ trần tại một vùng nhiệt đới với khí hậu nóng bức khắc nghiệt của tháng 5 thuộc mùa hạ của thành Đồ Bàn ( thuộc Bình Định, Miền Trung VN ngày nay) Thi thể một người đã qua đời không thể nào để quá 5 hoặc 10 ngày. Hơn nữa tục lệ Chiêm thành hồi đó không có việc ướp xác các vì vua. Như vậy Chế Mân phải được hỏa táng trong tháng 5 và nếu Huyền Trân phải lên dàn hỏa thì cũng phải lên ngay khi ấy, tức là vào tháng 5. Theo mạch văn trên mãi cho tới tháng 10 năm ấy tức là 5 tháng sau Trần Khắc Chung mới nhận lệnh qua Chiêm cộng thêm hơn hai tháng lênh đênh trên mặt biển vị chi là 8 tháng. Kể từ khi Chế Mân chết, mãi cho tới 8 tháng sau Trần Khắc Chung mới tới được thành Đồ Bàn. Như vậy nếu Huyền Trân bị lên dàn hỏa thì Trần Khắc Chung đã tới quá muộn rồi.
Vì Huyền Trân không bị thiêu nên sau đó đã đưa được công chúa về Thăng Long bằng an vô sự. Điều đó chứng tỏ rằng hòang hậu Paramecvari tức Huyền Trân không phải lên dàn hỏa như chúng ta nghĩ. Để xác định cho lập luận này tôi liên lạc với cụ Lưu quang Sang, một nhà trí thức của cộng đồng người Chăm tại Sacramento để xin ông cho biết ý kiến về việc này. Cụ đã cho biết như sau : Tục lệ các hậu phải lên dàn hỏa cùng một lúc với vua khi băng hà là một điều rất đúng theo luật lệ của đạo Bàlamôn. Nhưng tục lệ này khi du nhập vào Chiêm Thành đã thay đổi đi chút ít. Sự thay đổi đó là: Khi một vị vua Chiêm qua đời không bắt buộc tất cả các hoàng hậu, hoàng phi phải lên dàn hỏa mà chỉ cần một người mà thôi. Việc này hoàn toàn có tính cách tự nguyện. Nếu có nhiều bà cùng xin được hỏa thiêu, hoặc không có vị nào tình nguyện thì hội đồng hoàng tộc sẽ nhóm họp và bình chọn người nào xứng đáng, nết na, đức độ nhất để được chết theo vua. Vì đối với người Chăm được chết theo vua là một vinh dự lớn lao vì sau khi chết tượng bia của bà cũng được tôn thờ trong đền tháp cùng với vua thần là chồng mình. Người Chiêm Thành rất bảo thủ nên trong việc bình bầu, hoàng tộc Chăm không thể nào tuyển chọn Huyền Trân vì nàng là một cô dâu ngoại tộc, không thuộc giáo phái Bálamôn và gần như là một kẻ thù truyền kiếp của họ. Nên bằng bất cứ giá nào họ cũng không thể để Huyền Trân lên dàn thiêu để nàng được vinh dự tôn lên gần giống như một vị thần của dân tộc họ và rồi tượng bia của nàng cũng được tôn thờ trong đền tháp của họ. Việc này đã được chứng minh tại ngôi tháp Pôrômê, thuộc huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận như sau:
Thứ nhất : Theo sử gia Trần Gia Phụng một sử gia rất khả tín đang được nhiều người ái mộ đã trình bày trong cuốn Những Kỳ Án Trong Việt Sử : vào tháng 5 năm đinh mùi 1307 vua Chế Mân từ trần. Vì quá thương em, Trần Anh Tôn gởi Trần K Chung qua Chiêm vào tháng 10 năm ấy, kiếm cách cứu Huyền Trân. ( NKATVS trg 35)
Dù là một vì vua, Chế Mân đã từ trần tại một vùng nhiệt đới với khí hậu nóng bức khắc nghiệt của tháng 5 thuộc mùa hạ của thành Đồ Bàn ( thuộc Bình Định, Miền Trung VN ngày nay) Thi thể một người đã qua đời không thể nào để quá 5 hoặc 10 ngày. Hơn nữa tục lệ Chiêm thành hồi đó không có việc ướp xác các vì vua. Như vậy Chế Mân phải được hỏa táng trong tháng 5 và nếu Huyền Trân phải lên dàn hỏa thì cũng phải lên ngay khi ấy, tức là vào tháng 5. Theo mạch văn trên mãi cho tới tháng 10 năm ấy tức là 5 tháng sau Trần Khắc Chung mới nhận lệnh qua Chiêm cộng thêm hơn hai tháng lênh đênh trên mặt biển vị chi là 8 tháng. Kể từ khi Chế Mân chết, mãi cho tới 8 tháng sau Trần Khắc Chung mới tới được thành Đồ Bàn. Như vậy nếu Huyền Trân bị lên dàn hỏa thì Trần Khắc Chung đã tới quá muộn rồi.
Vì Huyền Trân không bị thiêu nên sau đó đã đưa được công chúa về Thăng Long bằng an vô sự. Điều đó chứng tỏ rằng hòang hậu Paramecvari tức Huyền Trân không phải lên dàn hỏa như chúng ta nghĩ. Để xác định cho lập luận này tôi liên lạc với cụ Lưu quang Sang, một nhà trí thức của cộng đồng người Chăm tại Sacramento để xin ông cho biết ý kiến về việc này. Cụ đã cho biết như sau : Tục lệ các hậu phải lên dàn hỏa cùng một lúc với vua khi băng hà là một điều rất đúng theo luật lệ của đạo Bàlamôn. Nhưng tục lệ này khi du nhập vào Chiêm Thành đã thay đổi đi chút ít. Sự thay đổi đó là: Khi một vị vua Chiêm qua đời không bắt buộc tất cả các hoàng hậu, hoàng phi phải lên dàn hỏa mà chỉ cần một người mà thôi. Việc này hoàn toàn có tính cách tự nguyện. Nếu có nhiều bà cùng xin được hỏa thiêu, hoặc không có vị nào tình nguyện thì hội đồng hoàng tộc sẽ nhóm họp và bình chọn người nào xứng đáng, nết na, đức độ nhất để được chết theo vua. Vì đối với người Chăm được chết theo vua là một vinh dự lớn lao vì sau khi chết tượng bia của bà cũng được tôn thờ trong đền tháp cùng với vua thần là chồng mình. Người Chiêm Thành rất bảo thủ nên trong việc bình bầu, hoàng tộc Chăm không thể nào tuyển chọn Huyền Trân vì nàng là một cô dâu ngoại tộc, không thuộc giáo phái Bálamôn và gần như là một kẻ thù truyền kiếp của họ. Nên bằng bất cứ giá nào họ cũng không thể để Huyền Trân lên dàn thiêu để nàng được vinh dự tôn lên gần giống như một vị thần của dân tộc họ và rồi tượng bia của nàng cũng được tôn thờ trong đền tháp của họ. Việc này đã được chứng minh tại ngôi tháp Pôrômê, thuộc huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận như sau:
Vào thời chúa Nguyễn để tránh khỏi ảnh hưởng của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn theo đuổi chính sách tàm thực về phương Nam. Nên Năm 1631 Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên gả người con gái thứ ba của mình là Nguyên Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pôrômê để giữ vững sự hòa hiếu giữa hai nước. Vua Pôrômê có ba hoàng hậu :
Chánh hậu Bia THUCHIH - bà là công chúa Chàm, khi lấy bà PÔRÔMÊ được lên tôn lên làm vua vì vua cha của bà THUCHIH không có con trai
Thứ hậu Bia THAN CHAN- bà người gốc Rhade theo Bàlamô giáo - Bà này lên dàn hỏa với vua Pôrômê
Thứ hậu Bia UT - tức công chúa Ngọc Khoa của Đại Việt
Vì bà thứ hậu Than Chan lên dàn hỏa nên tượng bia của bà được đặt thờ trong tháp Pôromê bên cạch vua thần Pôromê. Bà THUCHIH tuy là chánh hậu và là một công chúa gốc Chàm nhưng không chịu lên dàn hỏa nên bia tượng của bà chỉ được đặt phía ngoài tháp và có tạc ba hàng chữ có tính cách miệt thị là : Bia Thuchih, chánh hậu không chịu lên dàn hỏa. Còn bia tượng của bà Bia UT bỏ nằm lăn lóc ngoài khu đồng hoang Hmu-Bruh, đây là hành động tỏ sự khinh miệt.
Tất cả những di chỉ này hiện còn tại đền tháp Pôrômê gần làng Hậu Sanh, Huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận. Theo như sự trình bày của cụ Lưu Quang Sang và những điều tôi nêu trên thì Huyền Trân chắc chắn không phải lên dàn hỏa và việc đưa Huyền Trân về Thăng Long phải đi theo một chiều hướng khác có tính cách thuyết phục và êm thắm hơn để nàng trở về Đại Việt tránh khỏi phải trở thành một góa phụ mãn đời khi còn quá trẻ nơi đất khách quê người. Chứ không phải vào đó để bày chuyện rồi cướp người, hành động này là hành đông của phường thảo khấu, thiếu nhân cách không thể nào là đường lối mềm dẻo muốn duy mối hòa khí giữa hai dân tộc của triều Trần, một triều đại huy hoàng về đạo hạnh,chính trị, quân sự và văn học, và nếu cần giải quyết bằng đương lối cướp giật như vậy thì không cần tới một vị quan văn trọng tuổi như Trần Khắc Chung. Hơn nữa dân tộc Chiêm Thành khi đó cũng là một dân tộc văn minh hùng mạnh, họ thấm nhuần một nền văn hóa rất cao và thâm nghiêm của Ấn Độ không thua gì nền văn hóa Đại Việt chịu ảnh hương một phần văn hóa Trung Hoa. Hoàng tộc của Chiêm Thành là lớp người trí thức không phải là lớp trẻ con mà tin vào lời bịa đặt của Trân Khắc Chung nêu trên là đưa Huyền Trân ra bãi biển làm chủ đàn chay để thuyền Đại Việt đến cướp đi. Giả sử, lịch sử có một chữ "NẾU" việc này xảy ra đúng như vậy thì một số ít ỏi thuyền bè của Đại Việt ( Vì đi thương thuyết chứ không phải đi đánh giặc, nên số thuyền nhiều lắm cũng chỉ từ 15 tới 20 chiếc là cùng ) có chạy thoát nỗi những đoàn chiến thuyền thiện chiến của họ đang đóng dọc theo bờ biển từ Đồ Bàn (Bình Định) ra tới tận Quảng Nam, Quảng Ngãi hay không.? Việc thuyết phục Hoàng tộc Chiêm Thành không phải là một chuyện dễ dàng một sớm một chiều là xong, hơn nữa nếu hoàng tộc có bằng lòng đi chăng nữa thì cũng còn có thể bị ràng buộc rất nhiều bởi các điều cấm kỵ nếu có hoặc còn phải xem phản ứng của dân chúng nữa. Trần Khắc Chung không thể chỉ trong vài ngày là đưa được Huyền Trân về một cách an lành, mà có thể phải mất một tháng, hai tháng, sáu tháng hoặc nhiều hơn nữa cho tới khi nào đạt được mục đích. Vì nếu ra về mà không chu toàn nhiệm vụ đúng theo lệnh của vua chúa thời phong kiến thì phạm tội khi quân, nhẹ thì bãi chức hoặc bị lưu đầy, nặng thì phải tử hình. Theo cuốn Trần nhân Tông Toàn Tập của Lê Mạnh Thát ( Thích Trí Siêu ) : Năm Đinh Mùi tháng 5 , Chế Mân Chết, . Tháng 9 con của Huyền Trân là Chế Đa Đa sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng, chắc là để yêu cầu triều đình Đại Việt đi rước Huyền Trân về. Thế là tháng 10 sai Trần K Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và con là Đa Đa về ( (TNT/TT- trang205). Kết quả cuộc tình 18 tháng này là hoàng tử Chế Đa Đa, có nghĩa là Huyền Trân mới sinh con khoảng 4 hay 5 tháng . Với tình trạng một cậu bé 4 – 5 tháng tuổi như vậy thì làm sao mà ra lệnh cho sứ thần đem voi trắng qua Đại Việt xin đưa mình và mẹ về. Thật là một chuyện quá vô lý, nhưng sách vở cứ vẫn viết, các bậc thức giả khoa bảng vẫn dùng nó để trích đăng mà không cần lý tới cái hợp tình hợp lý của sự việc. Tôi luôn đặt một dấu hỏi: Tại sao các sách sử của Việt Nam cứ khẳng định và chấp nhận việc Huyền Trân và Trần Khắc Chung phải mất một thời gian dài gần một năm mới về tới Thăng Long là nguyên nhân do việc thông dâm của họ trên biển cả mà không lý tới biết bao trở ngại về thời tiết như: Sóng gió,mưa bão bất chợt của Miền Trung từ tháng 10 tới tháng 12 trên đường về. Hoặc về khía cạnh tâm lý trước cái chết của chồng mình và việc mình có thể lên dàn hỏa đã làm cho Huyền Trân, một cô gái còn trẻ lòng non dạ đang ở trong tình trạng cô đơn đau khổ và kích động tới tột cùng. Về thể lý Nàng có thể bỏ ăn mất ngũ mà phát sinh bệnh hoạn, hoặc suy nhượng một cách rất trầm trọng sau khi sanh nở chỉ mới được mấy tháng. Cho nên khi đoàn người của Đại Việt vào tới Chiêm Thành, ngoài việc thuyết phục còn có thể phải chăm sóc, thuốc thang, tẩm bổ chờ cho Huyền Trân bình phục và hoàng tử Chế Đa Đa cứng cáp mới có đủ sức khỏe chống chọi với sóng gió trên biển cả trên con đường thiên lý về cố quốc với những phương tiện còn qúa thô sơ về hàng hải thời trung cổ. Ai đã là người vượt biên tìm tự do bằng ghe thuyền chắc đã hiểu nỗi khổ của việc say sóng như thế nào. Việc rước công chúa về là một việc rất quan trong đối với sự sống còn và con đường hoạn lộ của Tràn Khắc Chung. Nếu, lịch sử có một chữ "NẾU" sự việc thông dâm này đã xảy ra thực sự mà triều Trần và vua Trần Anh Tôn, người rất thương yêu em mình biết rõ theo như sử sách của các ngài sử gia đã ghi chép. Tôi xin lấy tư cách của một kẻ hậu bối thiển cận đặt một câu với các sử thần : “Nếu các ngài ở vào địa vị của Trần Khắc Chung, Các ngài có đủ cam đảm làm cái chuyện lỗi lầm tầy đình ấy để rồi lãnh lấy bản án tử hình, hoặc bản án của lương tâm suốt cả cuộc đời hay không? Nếu Trần Khắc Chung gây nên điều tồi bại ấy mà vua quan nhà Trần ai cũng biết thì khi về tới Thăng Long cái đầu củaTrần Khắc Chung có còn dính trên cổ hay không ? “ Một lần nữa câu trả lời xin dành lại cho quý độc giả và những nhà nghiên cứu lịch sử mai sau. Hơn nữa Trần Khắc Chung lúc ấy đã trên 50 tuổi thuộc vào hàng cha chú, đức cao trọng vọng nên ông chỉ xem Huyền Trân như một người con đáng thương đang rơi vào tình trạng đau thương, tuyệt vọng. Huyền Trân lại là một vị công chúa của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tôn, em ruột của vua Trần Anh Tôn đang trị vì. Với Huyền Trân ông chỉ là kẻ cấp dưới làm sao dám mạo phạm. Tinh thần của một kẻ sĩ đáng tuổi cha ông và đã thấm nhuần đạo đức lễ nghĩa của Nho Giáo trong cái thời đại xa xưa đầy cấm kỵ ấy không thể nào cho phép ông làm cái điều thương luân bại lý đó trong khi đang gánh lấy trọng trách bảo toàn sự an nguy và mạng sống cho Huyền Trân. Vậy vì lý do nào mà các sử thần đã đổ cái tôi nhơ nhuốc tày đình đó lên đầu một vị quan trọng tuổi được sự kính nể của triều đình và một vị Công chúa còn non trẻ của Đại Việt, cũng là hoàng hậu của dân Chiêm. Phải chăng đây là một ác ý vô cùng thâm độc và tàn nhẫn của một thế lực nào chăng?. Nếu các điều tôi nêu trên được chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng đoạn văn nói về chuyên tình giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung trong các cuốn sử của ta rất hồ đồ, thiếu thận trọng của sử tính. Thế mà từ xưa tới nay, hễ nhắc tới chuyện tình Huyền Trân và Chế Mân thì hầu như chúng ta, ngay các các sử gia cũng vậy đều đồng thuận và mặc nhiên cho sự việc ấy đúng, nên không một lời biện hộ nào cho Huyền Trân. Thật tội nghiệp và oan ức cho nàng. Không biết những giòng chữ ngày hôm nay có được cái duyên làm một cơn mưa, dù rất nhẹ rửa đi một lớp bùn nhơ cho người con gái đáng thương của dân tộc thời đó và Bà cũng chính là tổ tiên của chúng ta ngày hôm nay, người đã có công mở cánh cửa cho con đường Nam Tiến để chúng ta có một giải giang sơn gấm vóc ngày nay. Nhưng nàng đã bị đổ vạ một cách oan uổng. Hãy trả lại sự thực và trong trắng cho nàng để những cuốn sử Việt cũng bớt đi đôi giòng mà khi bất cứ người Việt nào đọc tới đó cũng đều cảm thấy một chút ray rứt hổ thẹn, và nhất là để con cháu chúng ta không còn hổ thẹn vì những hành động của tổ tiên mình
Chánh hậu Bia THUCHIH - bà là công chúa Chàm, khi lấy bà PÔRÔMÊ được lên tôn lên làm vua vì vua cha của bà THUCHIH không có con trai
Thứ hậu Bia THAN CHAN- bà người gốc Rhade theo Bàlamô giáo - Bà này lên dàn hỏa với vua Pôrômê
Thứ hậu Bia UT - tức công chúa Ngọc Khoa của Đại Việt
Vì bà thứ hậu Than Chan lên dàn hỏa nên tượng bia của bà được đặt thờ trong tháp Pôromê bên cạch vua thần Pôromê. Bà THUCHIH tuy là chánh hậu và là một công chúa gốc Chàm nhưng không chịu lên dàn hỏa nên bia tượng của bà chỉ được đặt phía ngoài tháp và có tạc ba hàng chữ có tính cách miệt thị là : Bia Thuchih, chánh hậu không chịu lên dàn hỏa. Còn bia tượng của bà Bia UT bỏ nằm lăn lóc ngoài khu đồng hoang Hmu-Bruh, đây là hành động tỏ sự khinh miệt.
Tất cả những di chỉ này hiện còn tại đền tháp Pôrômê gần làng Hậu Sanh, Huyện An Phước, tỉnh Ninh Thuận. Theo như sự trình bày của cụ Lưu Quang Sang và những điều tôi nêu trên thì Huyền Trân chắc chắn không phải lên dàn hỏa và việc đưa Huyền Trân về Thăng Long phải đi theo một chiều hướng khác có tính cách thuyết phục và êm thắm hơn để nàng trở về Đại Việt tránh khỏi phải trở thành một góa phụ mãn đời khi còn quá trẻ nơi đất khách quê người. Chứ không phải vào đó để bày chuyện rồi cướp người, hành động này là hành đông của phường thảo khấu, thiếu nhân cách không thể nào là đường lối mềm dẻo muốn duy mối hòa khí giữa hai dân tộc của triều Trần, một triều đại huy hoàng về đạo hạnh,chính trị, quân sự và văn học, và nếu cần giải quyết bằng đương lối cướp giật như vậy thì không cần tới một vị quan văn trọng tuổi như Trần Khắc Chung. Hơn nữa dân tộc Chiêm Thành khi đó cũng là một dân tộc văn minh hùng mạnh, họ thấm nhuần một nền văn hóa rất cao và thâm nghiêm của Ấn Độ không thua gì nền văn hóa Đại Việt chịu ảnh hương một phần văn hóa Trung Hoa. Hoàng tộc của Chiêm Thành là lớp người trí thức không phải là lớp trẻ con mà tin vào lời bịa đặt của Trân Khắc Chung nêu trên là đưa Huyền Trân ra bãi biển làm chủ đàn chay để thuyền Đại Việt đến cướp đi. Giả sử, lịch sử có một chữ "NẾU" việc này xảy ra đúng như vậy thì một số ít ỏi thuyền bè của Đại Việt ( Vì đi thương thuyết chứ không phải đi đánh giặc, nên số thuyền nhiều lắm cũng chỉ từ 15 tới 20 chiếc là cùng ) có chạy thoát nỗi những đoàn chiến thuyền thiện chiến của họ đang đóng dọc theo bờ biển từ Đồ Bàn (Bình Định) ra tới tận Quảng Nam, Quảng Ngãi hay không.? Việc thuyết phục Hoàng tộc Chiêm Thành không phải là một chuyện dễ dàng một sớm một chiều là xong, hơn nữa nếu hoàng tộc có bằng lòng đi chăng nữa thì cũng còn có thể bị ràng buộc rất nhiều bởi các điều cấm kỵ nếu có hoặc còn phải xem phản ứng của dân chúng nữa. Trần Khắc Chung không thể chỉ trong vài ngày là đưa được Huyền Trân về một cách an lành, mà có thể phải mất một tháng, hai tháng, sáu tháng hoặc nhiều hơn nữa cho tới khi nào đạt được mục đích. Vì nếu ra về mà không chu toàn nhiệm vụ đúng theo lệnh của vua chúa thời phong kiến thì phạm tội khi quân, nhẹ thì bãi chức hoặc bị lưu đầy, nặng thì phải tử hình. Theo cuốn Trần nhân Tông Toàn Tập của Lê Mạnh Thát ( Thích Trí Siêu ) : Năm Đinh Mùi tháng 5 , Chế Mân Chết, . Tháng 9 con của Huyền Trân là Chế Đa Đa sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng, chắc là để yêu cầu triều đình Đại Việt đi rước Huyền Trân về. Thế là tháng 10 sai Trần K Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và con là Đa Đa về ( (TNT/TT- trang205). Kết quả cuộc tình 18 tháng này là hoàng tử Chế Đa Đa, có nghĩa là Huyền Trân mới sinh con khoảng 4 hay 5 tháng . Với tình trạng một cậu bé 4 – 5 tháng tuổi như vậy thì làm sao mà ra lệnh cho sứ thần đem voi trắng qua Đại Việt xin đưa mình và mẹ về. Thật là một chuyện quá vô lý, nhưng sách vở cứ vẫn viết, các bậc thức giả khoa bảng vẫn dùng nó để trích đăng mà không cần lý tới cái hợp tình hợp lý của sự việc. Tôi luôn đặt một dấu hỏi: Tại sao các sách sử của Việt Nam cứ khẳng định và chấp nhận việc Huyền Trân và Trần Khắc Chung phải mất một thời gian dài gần một năm mới về tới Thăng Long là nguyên nhân do việc thông dâm của họ trên biển cả mà không lý tới biết bao trở ngại về thời tiết như: Sóng gió,mưa bão bất chợt của Miền Trung từ tháng 10 tới tháng 12 trên đường về. Hoặc về khía cạnh tâm lý trước cái chết của chồng mình và việc mình có thể lên dàn hỏa đã làm cho Huyền Trân, một cô gái còn trẻ lòng non dạ đang ở trong tình trạng cô đơn đau khổ và kích động tới tột cùng. Về thể lý Nàng có thể bỏ ăn mất ngũ mà phát sinh bệnh hoạn, hoặc suy nhượng một cách rất trầm trọng sau khi sanh nở chỉ mới được mấy tháng. Cho nên khi đoàn người của Đại Việt vào tới Chiêm Thành, ngoài việc thuyết phục còn có thể phải chăm sóc, thuốc thang, tẩm bổ chờ cho Huyền Trân bình phục và hoàng tử Chế Đa Đa cứng cáp mới có đủ sức khỏe chống chọi với sóng gió trên biển cả trên con đường thiên lý về cố quốc với những phương tiện còn qúa thô sơ về hàng hải thời trung cổ. Ai đã là người vượt biên tìm tự do bằng ghe thuyền chắc đã hiểu nỗi khổ của việc say sóng như thế nào. Việc rước công chúa về là một việc rất quan trong đối với sự sống còn và con đường hoạn lộ của Tràn Khắc Chung. Nếu, lịch sử có một chữ "NẾU" sự việc thông dâm này đã xảy ra thực sự mà triều Trần và vua Trần Anh Tôn, người rất thương yêu em mình biết rõ theo như sử sách của các ngài sử gia đã ghi chép. Tôi xin lấy tư cách của một kẻ hậu bối thiển cận đặt một câu với các sử thần : “Nếu các ngài ở vào địa vị của Trần Khắc Chung, Các ngài có đủ cam đảm làm cái chuyện lỗi lầm tầy đình ấy để rồi lãnh lấy bản án tử hình, hoặc bản án của lương tâm suốt cả cuộc đời hay không? Nếu Trần Khắc Chung gây nên điều tồi bại ấy mà vua quan nhà Trần ai cũng biết thì khi về tới Thăng Long cái đầu củaTrần Khắc Chung có còn dính trên cổ hay không ? “ Một lần nữa câu trả lời xin dành lại cho quý độc giả và những nhà nghiên cứu lịch sử mai sau. Hơn nữa Trần Khắc Chung lúc ấy đã trên 50 tuổi thuộc vào hàng cha chú, đức cao trọng vọng nên ông chỉ xem Huyền Trân như một người con đáng thương đang rơi vào tình trạng đau thương, tuyệt vọng. Huyền Trân lại là một vị công chúa của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tôn, em ruột của vua Trần Anh Tôn đang trị vì. Với Huyền Trân ông chỉ là kẻ cấp dưới làm sao dám mạo phạm. Tinh thần của một kẻ sĩ đáng tuổi cha ông và đã thấm nhuần đạo đức lễ nghĩa của Nho Giáo trong cái thời đại xa xưa đầy cấm kỵ ấy không thể nào cho phép ông làm cái điều thương luân bại lý đó trong khi đang gánh lấy trọng trách bảo toàn sự an nguy và mạng sống cho Huyền Trân. Vậy vì lý do nào mà các sử thần đã đổ cái tôi nhơ nhuốc tày đình đó lên đầu một vị quan trọng tuổi được sự kính nể của triều đình và một vị Công chúa còn non trẻ của Đại Việt, cũng là hoàng hậu của dân Chiêm. Phải chăng đây là một ác ý vô cùng thâm độc và tàn nhẫn của một thế lực nào chăng?. Nếu các điều tôi nêu trên được chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng đoạn văn nói về chuyên tình giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung trong các cuốn sử của ta rất hồ đồ, thiếu thận trọng của sử tính. Thế mà từ xưa tới nay, hễ nhắc tới chuyện tình Huyền Trân và Chế Mân thì hầu như chúng ta, ngay các các sử gia cũng vậy đều đồng thuận và mặc nhiên cho sự việc ấy đúng, nên không một lời biện hộ nào cho Huyền Trân. Thật tội nghiệp và oan ức cho nàng. Không biết những giòng chữ ngày hôm nay có được cái duyên làm một cơn mưa, dù rất nhẹ rửa đi một lớp bùn nhơ cho người con gái đáng thương của dân tộc thời đó và Bà cũng chính là tổ tiên của chúng ta ngày hôm nay, người đã có công mở cánh cửa cho con đường Nam Tiến để chúng ta có một giải giang sơn gấm vóc ngày nay. Nhưng nàng đã bị đổ vạ một cách oan uổng. Hãy trả lại sự thực và trong trắng cho nàng để những cuốn sử Việt cũng bớt đi đôi giòng mà khi bất cứ người Việt nào đọc tới đó cũng đều cảm thấy một chút ray rứt hổ thẹn, và nhất là để con cháu chúng ta không còn hổ thẹn vì những hành động của tổ tiên mình
Tinh thần của câu ca dao.
Trong những cái ê ẩm vừa nêu trên, chúng ta lại gặp phải tính cách khinh thường, kiêu hãnh của câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
. Từ ngày còn là một cậu học sinh tiểu học, tôi đã được người lớn và các thầy cô gieo rắc trong tâm hồn : đó là câu ca dao ám chỉ việc Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân. Tâm hồn non trẻ của tôi nghe vậy thì biết vậy. Không suy xét lôi thôi- Chơi cái đã - nên chẳng hiểu một chút nào về chiều sâu, và cái thâm ý có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao của nó. Khi lớn lên đọc lại câu ca dao ấy mới thấy giật mình tự hỏi: Hai câu ca dao này xuất hiên từ nơi chốn nào, thời gian nào? Ai là tác giả hai câu lục bát quái ác như vậy? Độc địa quá! cay đắng quá! kiêu mạn quá! Dân tộc Chăm khi đọc hoặc nghe được hai câu ca dao này hoặc bài thơ ông cử nhân Hoàng Cao Khải thời Pháp thuộc thì lập tức trong tâm thức họ sẽ bùng lên một trận cuồng phong đâỳ phẩn nộ và uất hận. Còn lớp trẻ Việt chúng tôi sau này chẳng thấy hãnh diện về hai câu ca dao đó một chút nào và khi đọc tới còn phải nhăn mặt là đàng khác. Sự thực hai câu ca dao này như thế nào? Có phải thực sự xoi móc việc Huyền Trân về làm dâu xứ Chiêm hay không? Chúng ta cứ lần mò thử xem.
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán, Thằng Mường nó leo
Đọc lên hai câu thơ chúng ta hiểu ngay được rằng Huyền Trân được ví như cây quế. Quế là một loại cây quý hiếm, nhưng lại mọc ở giữa rừng hoang vô chủ thì cái quý hiếm thì có nhưng nét đài các vọng tộc thì thiếu hẵn. Vì mọc ở chốn rừng hoang nên ai tới trước, kiếm được, ai tài giỏi thì cứ chiếm lấy mà trèo, bất luận là sang hèn, Kinh, Thượng, Rhadé, Mán, Mường, Thái,Mèo, Hmông, LôLô. v. v. như vậy chủ thể than lên hai chữ "Tiếc Thay" ở vào vị trí nào đây? Trâu chậm thì uống nước đục, phận mình hẩm hiu, thiếu may mắn thì đành chịu vậy thôi? Than lên một chút cho giải nghễ cơn sầu thì cũng là hành động đáng mến thay.. Nhưng có vẽ như thua cuộc.
Nhưng nếu : Tiếc thay cây quế giữa vườn - thì sao đây!
Trường hợp này hoàn toàn khác hẵn. Cây quế quý hiếm ấy đã được ương trồng trong vườn thượng uyển, hơn nữa lại được người chủ trông nom phân bón cẩn thận, tỉa ngọn, cắt cành rất kỹ lưõng, công phu và đài các như vậy thì thằng Mán, thằng Mường chui vào mà trèo lên thì không than: "Tiếc Thay" làm sao cho được.
Nhưng nếu thực sự hai câu ca dao đó ám chỉ vào trường hợp của Huyền Trân thì không phải là thằng Mán, thằng Mường mà ông chủ lại mời được một ông vua nước khác, hùng mạnh, giầu sang phú quý và cũng có một nền văn minh rực rỡ không thua gì của nhà mình vào vườn để trèo lên cây quế. Như vậy thì quả quá xứng đáng rồi còn than "Tiêc Thay" làm gì nữa. Nếu cứ vẫn cố chấp mà than thì tỏ ra mình là kẻ hẹp hòi, tối tăm, không thức thời rồi ghen tuông tầm phào. Nhưng nghĩ ra cho cùng thì giữa cuộc đời ô trọc này ai mà chẳng ghen! Ghen là bản chất muôn thủa của loài người. Tìm đâu ra những tâm hồn cao thượng và giác ngộ đây!
Như vậy hai câu cao dao trên tôi xin được thử (thử thôi nhé) mạo muội đổi thành:
Tiếc thay cây quế giữa vườn
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo
Mường, Mán là hai dân tộc thiểu số sống tại miền thượng du và trung du Bắc Việt. Người Mường sinh sống rải rác trên các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ và một số huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa. Nhưng chính Thanh Hóa mới là trung điểm của xứ Mường. Tại đây 5 huyện Trường Xuân, Lang Chánh, Ngọc Lạc, Như Xuân và Hồi Xuân lập thành một chiến lũy thiên nhiên ngăn cách Lào với bao la rừng núi thâm u, hiểm trở. Theo các nhà nhân chủng học họ chính là người Việt cổ. Chế độ quan Lang là một chế độ phong kiến, xây dựng trên đặc quyền của nhiều dòng họ. Các dòng họ danh tiêng đó là : Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà, Cẩm, Lê, Phạm. Chúng ta nhận thấy tên Họ của người Mường chính là những tên Họ của người Việt chúng ta.
Người Mán sinh sống tại vùng thượng du Bắc Việt và Thượng Lào. Các nhà nhân chủng học cho rằng gốc gác của họ là người Thái. Họ là giống người hay nghi kỵ. Họ tin chó là tổ tiên nên không bao giờ ăn thịt chó. Giống như người Ấn Độ không ăn thịt bò. Ngày xưa họ chiếm cứ một vùng rộng lớn tại thung lũng sông Dương Tử Giang gồm Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây v. v Họ tiến về phái Nam và lọt vào Bắc Việt vào thế kỷ 13.
Tại vùng thượng du Bắc Việt đã từ bao đời là đất sinh sống của rất nhiều dân tộc thiểu số. Họ chiếm cứ và sinh sống trên những vùng, miền có tính cách chiến lược. Do đó kể từ khi nhà Lý lên cầm quyền và củng cố nền độc lập nước nhà. Triều Lý đã có chính sách chiêu dụ tạo thêm vây cánh và thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh châu mục.
-Vào Năm 1029 vua Lý thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu ( Lạng Sơn ) là Thân thiên Thái.
-Năm 1036 ngài lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu ( Phú Thọ, Sơn Tây ) là Lê tông Thuận và gả công chua Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà thiện Lãm.
- Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chua Khâm Thánh cho châu mục Vị Long ( Tuyên Quang ) là Hà Di Khánh.
- Năm 1127 ngài lại gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương ( Thái Nguyên ) là Dương Tự Minh,
- Năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa nữa là Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã gả tổng cộng 6 công chúa cho các châu mục người thiểu số. Những thủ lãnh châu mục này có tên Họ Thân, Hà, Dương, Lê. Điều đó cho chúng ta một giả thuyết : Những dòng họ ấy là của người Mường. Vậy hai câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Sự thực câu ca dao trên dùng để ám chỉ cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân hay để chỉ tất cả 6 công chúa đã gả cho các châu mục người Mường, Mán, Tày Nùng vào thời nhà Lý? Câu hỏi này mãi mãi vẫn còn lơ lững giữa trời mây không biết tới bao giờ mới có câu trả lời đây.
Đất cày lên sỏi đá :
Đây là một đoạn trong một bài hát nào đó đã được cố ca sĩ Anh Thoại, một ca sĩ hiền như cục cơm hát cách nay rất lâu tôi không nhớ tên - dùng để tả cảnh đất đai khô cằn, khó nghèo, mà người dân phải lam lũ cực nhọc lắm mới có miếng cơm manh áo. Đó chính là vùng đất nằm giữa Miền Trung chạy từ phiá bắc chân Đèo Hải Vân ra tới Hà Tỉnh. ( Vùng đất này thuộc lãnh thổ phía bắc nước Chiêm Thành từ năn 192 tới 1306 ). Ở đây chỉ có những bình nguyên hẹp chạy dọc theo duyên hải, đất đai khô cằn. Vào mùa hạ thường bị thủy triều xâm nhập. Các con sông phát nguyên từ dãy Trường Sơn đổ xuống ngắn, nhiều gềnh đá nên thường hay gây nên những trận lũ lụt. Khí hậu thì khắc nghiệt. Mùa hạ gió Lào thổi xuống như bỏng da cháy thịt, mùa đông bão tố lũ lụt liên miên:
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi!. Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn. Trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm.. .à à à. ơi! ( Tiếng Sông Hương –PDC)
Hoặc Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi. Làng tôi có những ông già rách vai cuốc đấy bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày. ( Quê Nghèo –P. Duy)
Đó! cái cảnh một vùng chó ăn đá gà ăn muối thuộc miền Trung là như vậy đó. Hai người nghệ sĩ tài danh Phạm Đình Chương, Phạm Duy đã có cái nhìn sâu sắc, tinh vi và với một tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy, chan chứa tình người, hai ông đã thay cho người dân nơi đây nói lên những cái mà với tâm hồn chân quê chất phát, chỉ biết cắn răng chịu đựng mà tranh đấu mà sống còn, họ không thể nào thốn nên lời. Cái vùng đất chai cằn sỏi đá ấy cha ông chúng ta đã phải trả bằng biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu là xương máu, kể cả một tâm hồn trong trắng, tình yêu và chia lìa của một người con gái thơ ngây Huyền Trân.
Lịch sử đã kể rằng : Vào những năm vua Lý thánh Tôn trị vì, Vua Chiêm là Chế Củ đem quân xâm lấn nước ta năm 1068. Vua Lý Thánh Tôn phải thân hành đi dẹp. Bắt được Chế Củ đem về Thăng Long. Để đổi lấy tự do Chế Củ xin dâng đất ba châu phía bắc Chiêm Thành là Bố Chính ( Từ Hà Tỉnh tới bắc Quảng Bình ), Địa Lý ( trung và Nam Quảng Bình ). Ma Linh ( bắc Quảng Trị).
Vào thời đại nhà Trần Chế Mân lại dâng thêm hai châu Ô ( Nam Quảng Trị và bắc Thừa Thiên) và Lý ( Nam Thừa Thiên và bắc Quảng Nam ) để làm sính lễ cưới Huyền Trân như đã kể phần trênKể từ đó vùng đất này thuộc chủ quyền của Đại Việt.
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
. Từ ngày còn là một cậu học sinh tiểu học, tôi đã được người lớn và các thầy cô gieo rắc trong tâm hồn : đó là câu ca dao ám chỉ việc Huyền Trân gả cho vua Chiêm Chế Mân. Tâm hồn non trẻ của tôi nghe vậy thì biết vậy. Không suy xét lôi thôi- Chơi cái đã - nên chẳng hiểu một chút nào về chiều sâu, và cái thâm ý có tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao của nó. Khi lớn lên đọc lại câu ca dao ấy mới thấy giật mình tự hỏi: Hai câu ca dao này xuất hiên từ nơi chốn nào, thời gian nào? Ai là tác giả hai câu lục bát quái ác như vậy? Độc địa quá! cay đắng quá! kiêu mạn quá! Dân tộc Chăm khi đọc hoặc nghe được hai câu ca dao này hoặc bài thơ ông cử nhân Hoàng Cao Khải thời Pháp thuộc thì lập tức trong tâm thức họ sẽ bùng lên một trận cuồng phong đâỳ phẩn nộ và uất hận. Còn lớp trẻ Việt chúng tôi sau này chẳng thấy hãnh diện về hai câu ca dao đó một chút nào và khi đọc tới còn phải nhăn mặt là đàng khác. Sự thực hai câu ca dao này như thế nào? Có phải thực sự xoi móc việc Huyền Trân về làm dâu xứ Chiêm hay không? Chúng ta cứ lần mò thử xem.
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán, Thằng Mường nó leo
Đọc lên hai câu thơ chúng ta hiểu ngay được rằng Huyền Trân được ví như cây quế. Quế là một loại cây quý hiếm, nhưng lại mọc ở giữa rừng hoang vô chủ thì cái quý hiếm thì có nhưng nét đài các vọng tộc thì thiếu hẵn. Vì mọc ở chốn rừng hoang nên ai tới trước, kiếm được, ai tài giỏi thì cứ chiếm lấy mà trèo, bất luận là sang hèn, Kinh, Thượng, Rhadé, Mán, Mường, Thái,Mèo, Hmông, LôLô. v. v. như vậy chủ thể than lên hai chữ "Tiếc Thay" ở vào vị trí nào đây? Trâu chậm thì uống nước đục, phận mình hẩm hiu, thiếu may mắn thì đành chịu vậy thôi? Than lên một chút cho giải nghễ cơn sầu thì cũng là hành động đáng mến thay.. Nhưng có vẽ như thua cuộc.
Nhưng nếu : Tiếc thay cây quế giữa vườn - thì sao đây!
Trường hợp này hoàn toàn khác hẵn. Cây quế quý hiếm ấy đã được ương trồng trong vườn thượng uyển, hơn nữa lại được người chủ trông nom phân bón cẩn thận, tỉa ngọn, cắt cành rất kỹ lưõng, công phu và đài các như vậy thì thằng Mán, thằng Mường chui vào mà trèo lên thì không than: "Tiếc Thay" làm sao cho được.
Nhưng nếu thực sự hai câu ca dao đó ám chỉ vào trường hợp của Huyền Trân thì không phải là thằng Mán, thằng Mường mà ông chủ lại mời được một ông vua nước khác, hùng mạnh, giầu sang phú quý và cũng có một nền văn minh rực rỡ không thua gì của nhà mình vào vườn để trèo lên cây quế. Như vậy thì quả quá xứng đáng rồi còn than "Tiêc Thay" làm gì nữa. Nếu cứ vẫn cố chấp mà than thì tỏ ra mình là kẻ hẹp hòi, tối tăm, không thức thời rồi ghen tuông tầm phào. Nhưng nghĩ ra cho cùng thì giữa cuộc đời ô trọc này ai mà chẳng ghen! Ghen là bản chất muôn thủa của loài người. Tìm đâu ra những tâm hồn cao thượng và giác ngộ đây!
Như vậy hai câu cao dao trên tôi xin được thử (thử thôi nhé) mạo muội đổi thành:
Tiếc thay cây quế giữa vườn
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo
Mường, Mán là hai dân tộc thiểu số sống tại miền thượng du và trung du Bắc Việt. Người Mường sinh sống rải rác trên các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ và một số huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa. Nhưng chính Thanh Hóa mới là trung điểm của xứ Mường. Tại đây 5 huyện Trường Xuân, Lang Chánh, Ngọc Lạc, Như Xuân và Hồi Xuân lập thành một chiến lũy thiên nhiên ngăn cách Lào với bao la rừng núi thâm u, hiểm trở. Theo các nhà nhân chủng học họ chính là người Việt cổ. Chế độ quan Lang là một chế độ phong kiến, xây dựng trên đặc quyền của nhiều dòng họ. Các dòng họ danh tiêng đó là : Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà, Cẩm, Lê, Phạm. Chúng ta nhận thấy tên Họ của người Mường chính là những tên Họ của người Việt chúng ta.
Người Mán sinh sống tại vùng thượng du Bắc Việt và Thượng Lào. Các nhà nhân chủng học cho rằng gốc gác của họ là người Thái. Họ là giống người hay nghi kỵ. Họ tin chó là tổ tiên nên không bao giờ ăn thịt chó. Giống như người Ấn Độ không ăn thịt bò. Ngày xưa họ chiếm cứ một vùng rộng lớn tại thung lũng sông Dương Tử Giang gồm Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây v. v Họ tiến về phái Nam và lọt vào Bắc Việt vào thế kỷ 13.
Tại vùng thượng du Bắc Việt đã từ bao đời là đất sinh sống của rất nhiều dân tộc thiểu số. Họ chiếm cứ và sinh sống trên những vùng, miền có tính cách chiến lược. Do đó kể từ khi nhà Lý lên cầm quyền và củng cố nền độc lập nước nhà. Triều Lý đã có chính sách chiêu dụ tạo thêm vây cánh và thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh châu mục.
-Vào Năm 1029 vua Lý thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu ( Lạng Sơn ) là Thân thiên Thái.
-Năm 1036 ngài lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu ( Phú Thọ, Sơn Tây ) là Lê tông Thuận và gả công chua Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà thiện Lãm.
- Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chua Khâm Thánh cho châu mục Vị Long ( Tuyên Quang ) là Hà Di Khánh.
- Năm 1127 ngài lại gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương ( Thái Nguyên ) là Dương Tự Minh,
- Năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa nữa là Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã gả tổng cộng 6 công chúa cho các châu mục người thiểu số. Những thủ lãnh châu mục này có tên Họ Thân, Hà, Dương, Lê. Điều đó cho chúng ta một giả thuyết : Những dòng họ ấy là của người Mường. Vậy hai câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Sự thực câu ca dao trên dùng để ám chỉ cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân hay để chỉ tất cả 6 công chúa đã gả cho các châu mục người Mường, Mán, Tày Nùng vào thời nhà Lý? Câu hỏi này mãi mãi vẫn còn lơ lững giữa trời mây không biết tới bao giờ mới có câu trả lời đây.
Đất cày lên sỏi đá :
Đây là một đoạn trong một bài hát nào đó đã được cố ca sĩ Anh Thoại, một ca sĩ hiền như cục cơm hát cách nay rất lâu tôi không nhớ tên - dùng để tả cảnh đất đai khô cằn, khó nghèo, mà người dân phải lam lũ cực nhọc lắm mới có miếng cơm manh áo. Đó chính là vùng đất nằm giữa Miền Trung chạy từ phiá bắc chân Đèo Hải Vân ra tới Hà Tỉnh. ( Vùng đất này thuộc lãnh thổ phía bắc nước Chiêm Thành từ năn 192 tới 1306 ). Ở đây chỉ có những bình nguyên hẹp chạy dọc theo duyên hải, đất đai khô cằn. Vào mùa hạ thường bị thủy triều xâm nhập. Các con sông phát nguyên từ dãy Trường Sơn đổ xuống ngắn, nhiều gềnh đá nên thường hay gây nên những trận lũ lụt. Khí hậu thì khắc nghiệt. Mùa hạ gió Lào thổi xuống như bỏng da cháy thịt, mùa đông bão tố lũ lụt liên miên:
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi!. Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn. Trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm.. .à à à. ơi! ( Tiếng Sông Hương –PDC)
Hoặc Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi. Làng tôi có những ông già rách vai cuốc đấy bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày. ( Quê Nghèo –P. Duy)
Đó! cái cảnh một vùng chó ăn đá gà ăn muối thuộc miền Trung là như vậy đó. Hai người nghệ sĩ tài danh Phạm Đình Chương, Phạm Duy đã có cái nhìn sâu sắc, tinh vi và với một tâm hồn nghệ sĩ bén nhạy, chan chứa tình người, hai ông đã thay cho người dân nơi đây nói lên những cái mà với tâm hồn chân quê chất phát, chỉ biết cắn răng chịu đựng mà tranh đấu mà sống còn, họ không thể nào thốn nên lời. Cái vùng đất chai cằn sỏi đá ấy cha ông chúng ta đã phải trả bằng biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, bao nhiêu là xương máu, kể cả một tâm hồn trong trắng, tình yêu và chia lìa của một người con gái thơ ngây Huyền Trân.
Lịch sử đã kể rằng : Vào những năm vua Lý thánh Tôn trị vì, Vua Chiêm là Chế Củ đem quân xâm lấn nước ta năm 1068. Vua Lý Thánh Tôn phải thân hành đi dẹp. Bắt được Chế Củ đem về Thăng Long. Để đổi lấy tự do Chế Củ xin dâng đất ba châu phía bắc Chiêm Thành là Bố Chính ( Từ Hà Tỉnh tới bắc Quảng Bình ), Địa Lý ( trung và Nam Quảng Bình ). Ma Linh ( bắc Quảng Trị).
Vào thời đại nhà Trần Chế Mân lại dâng thêm hai châu Ô ( Nam Quảng Trị và bắc Thừa Thiên) và Lý ( Nam Thừa Thiên và bắc Quảng Nam ) để làm sính lễ cưới Huyền Trân như đã kể phần trênKể từ đó vùng đất này thuộc chủ quyền của Đại Việt.
Theo thiển ý của tôi sở dĩ các vua Chiêm Thành dâng phần đất ấy cho chúng ta một cách dễ dàng như vậy vì họ chê, không quý trọng vùng đất này. Họ thấy đất đai hẹp, khô cằn và nghèo nàn quá, khí hậu thì khắc nghiệt. Nó giống như một khúc xương chỉ bọc một lớp da khô héo nhăn nheo. Dân Chiêm Thành có lẽ không sinh sống trên vùng đất này hoặc nếu có cũng rất thưa thớt. Bằng chứng xác thực cho điều suy đoán này là Từ Bình Thuận chạy dài ra tới Quảng Nam, Quảng Ngãi, đồng bằng và đất cát khá phì nhiêu, khí hậu tương đối dễ chịu mát mẽ hơn, đời sóng dân chúng sung túc no đủ, nên các vua Chiêm đã thiết lập các kinh đô Mỹ Sơn ( Đà Nẵng ) Đồ Bàn ( Bình Định ), Panduran ( Phan Rang) và các đền tháp được xây rải rác trên các ngọn đồi từ Phan Thiết ra tới Đà Nẵng. Nhưng bắt đầu từ phiá bắc chân Đèo Hải Vân qua Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tỉnh hoàn toàn không có một ngôi đền, một ngọn tháp nào ghi dấu ấn chứng minh nét sinh hoạt tập thể của dân Chiêm. Họ chê thật mà. Họ đâu thèm ở. Nhưng họ đâu ngờ rằng khi vùng đất khô cằn ấy đã thuộc vào giòng sinh mệnh của Đại Việt thì với tinh thần tranh đấu mãnh liệt, lòng kiên trì, nhẫn nại tới đá mòn sông lỡ. Dân Việt đã biến vùng đất làm nản lòng dân Chiêm ấy trở thành mảnh đất có những thắng cảnh xinh đẹp như : Đèo Hải Vân, sông Hương núi Ngự, động Phong Nha tuy cho tới ngày nay nó vẫn còn nghèo nhưng bởi thời cuộc chứ không bởi lòng dân. Và cũng từ mảnh đất các vua Chiêm coi rẻ này dân tộc Việt vươn vai đứng lên bước một bước thật dài tới tân mũi Cà Mau. Để hôm nay chúng ta có một giang sơn tuyệt vời
Lịch sử của nhân loại là lịch sử của chiến tranh và lầm lỗi. Kể từ khi con người biết bỏ đi cái bản chất súc sanh thời tiền lịch sử để đứng thẳng trên hai chân mà làm con người trí tuệ thì chính trị cũng bắt đầu khai sinh. Chiến tranh cũng từ trong hang động, rừng rú xuất hiện. Con người đã chạy bộ mà tranh dành đất đai, miếng ăn. Ngồi trên lưng ngựa mà chiến đấu và con người hôm nay ngự tri trên các kỹ thuật khoa hoc để nhân danh văn minh tiến bộ mà bắn phá. Chiến tranh là cái đuôi của chính trị nên nó không rời khỏi con người, mãi mãi là chiếc bóng của con người. Chiếc bóng ấy khổ nỗi nó không bỏ được bản tính súc sanh muôn đời của nó. Chính con người thực cũng mãi mãi là một sinh vật mang lưỡng thể tính. Vai phải ngự trị thiên thần, vai trái ngự trị một ác quỷ. Lịch sử nhân loại từ thượng cổ cho tới thời cận kim nhất là thời trung cổ có một định luật : Kẻ thắng thì dành dân chiếm đất. Kẻ yếu thì mất nưóc nhà tan hoặc bị đồng hóa. Dân Việt và Chiêm Thành cũng nằm trong cái định luật chung đó. Chỉ tiếc một điều là các vị vua Chiêm họ không giống các vua của Đại Việt. Họ quá ích kỷ, chi nghĩ tới cái ngai vàng của mình mà không nghĩ tới lẽ sinh tồn của dân tộc. Họ đã đi sai nhiều nước cờ sanh tử để cuối cùng thua cả một ván cờ
. Lịch sử của nhân loại là lịch sử của chiến tranh và lầm lỗi. Kể từ khi con người biết bỏ đi cái bản chất súc sanh thời tiền lịch sử để đứng thẳng trên hai chân mà làm con người trí tuệ thì chính trị cũng bắt đầu khai sinh. Chiến tranh cũng từ trong hang động, rừng rú xuất hiện. Con người đã chạy bộ mà tranh dành đất đai, miếng ăn. Ngồi trên lưng ngựa mà chiến đấu và con người hôm nay ngự tri trên các kỹ thuật khoa hoc để nhân danh văn minh tiến bộ mà bắn phá. Chiến tranh là cái đuôi của chính trị nên nó không rời khỏi con người, mãi mãi là chiếc bóng của con người. Chiếc bóng ấy khổ nỗi nó không bỏ được bản tính súc sanh muôn đời của nó. Chính con người thực cũng mãi mãi là một sinh vật mang lưỡng thể tính. Vai phải ngự trị thiên thần, vai trái ngự trị một ác quỷ. Lịch sử nhân loại từ thượng cổ cho tới thời cận kim nhất là thời trung cổ có một định luật : Kẻ thắng thì dành dân chiếm đất. Kẻ yếu thì mất nưóc nhà tan hoặc bị đồng hóa. Dân Việt và Chiêm Thành cũng nằm trong cái định luật chung đó. Chỉ tiếc một điều là các vị vua Chiêm họ không giống các vua của Đại Việt. Họ quá ích kỷ, chi nghĩ tới cái ngai vàng của mình mà không nghĩ tới lẽ sinh tồn của dân tộc. Họ đã đi sai nhiều nước cờ sanh tử để cuối cùng thua cả một ván cờ
Lịch sử đã sang trang, dân tộc Chiêm và nền văn hóa của họ vẫn được mọi người Việt kính trọng và gìn giữ. Chúng ta hãy cố gắng hàn gắn lại mọi đổ vỡ, gìn giữ và bảo trì thật cẩn trọng các di sản văn hóa Chăm vì chính đó là hành động biểu lộ lòng tôn trọng một dân tộc đã cùng chúng ta trãi qua bao thăng trầm chua xót và họ cũng đã có một thời đại quá khứ uy hùng, vàng son, cao đẹp và chính nền văn hóa Champ đã đóng góp không nhỏ trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của chúng ta ngày nay.
Họ thật xứng đáng được chúng ta tôn trong.
Họ thật xứng đáng được chúng ta tôn trong.
Anh Danh mến,
ReplyDeleteHôm nay thú thật là phải đem hết nhẫn nại ra để chăm chú đọc một mạch từ đầu đến cuối bài viết thật dài, chứa đầy sử liệu của anh. Không ngờ anh cũng là người đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu lịch sử, để có được cái nhìn rất bao quát nhưng lại rất nghiêm túc về các chi tiết lịch sử trong việc khai phóng và nam tiến của dân Việt chúng ta. Độc đáo trong bài viết này trực tiếp đề cập đến những uẩn khúc đáng nghi ngờ trong chuyện tình Huyền Trân công chúa và Trần Khắc Chung, và một cách thuyết phục, anh đã khéo léo gỡ rối mối bòng bong này.
Cám ơn anh nhiều nhé, nhờ anh mà kiến thức lịch sử của CT cũng được mở mang thêm nhiều.
Rất mến,
CT