Lạy Chúa Giêsu, Đấng lòng con yêu mến. Đây là những dòng suy niệm của con trong những ngày con được đi VỀ. Về quê nơi Chúa sinh ra làm người. Nơi mà ơn Cứu Độ đã được ban phát ra cho toàn thế giới. Nơi mà lòng thương xót Chúa đổ tràn ra cho nhân loại không phân biệt chủng tộc, màu da, không phân biệt kẻ sang người hèn.
Với con, nơi Chúa sinh ra cũng là nơi quê Nội và quê Ngoại của riêng con vì Mẹ Maria và Thánh cả Giuse cũng đã được Chúa chọn trong phần đất này. Vì thế, con muốn thưa với Chúa rằng con đang trên đường về thăm quê Mình mà bao nhiêu năm con hằng ấp ủ.
Chúa cùng đi với con qua 4 vị linh mục tháp tùng. Đây là một hồng ân rất tuyệt vời vì một đoàn hành hương có được một linh mục tháp tùng đã là quý. Trong khi đó, chúng con được tới 4 vị linh mục. Đoàn hành hương của chúng con lần này ngoài Cha Phêrô Nguyễn-Chí-Thiết, một linh mục đã có rất nhiều kinh nghiệm hướng dẫn hành hương Đất Thánh (54 lần) còn có các cha Phêrô Nguyễn-Thế-Tuyển, cha Giuse Phạm-Ngọc-Tuấn và cha Giuse Phạm-Quốc-Thông cùng đi để cùng cha Thiết giúp đỡ đoàn hành hương về tâm linh và tổ chức.
Sáng thứ hai ngày 3 tháng 8 năm 2009 vào lúc 9 giờ, tại Queen of Apostles Renewal Centre, Cha Tuấn và cha Thông đã dâng thánh lễ Lên Đường để cầu nguyện cho chuyến hành hương được tràn đầy ơn Chúa. Qua bài tin Mừng của thánh Mt.14,13-21 Chúa chạnh lòng thương khi thấy đám đông theo Ngài để nghe Ngài giảng. Ngài đã chữa lành bệnh tật của họ. Trời đã về chiều, các môn đệ thưa với Chúa: "Xin Ngài hãy giải tán đám đông để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn". Chúa bảo các ông: "Họ không cần đi đâu cả. Chính các con hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá"! Chúa bảo: "Đem lại đây cho Thầy". Chúa truyền cho đám đông ngả mình trên cỏ. Chúa cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, rồi trao cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh vụn, người ta thu lại được 12 giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông không kể đàn bà và trẻ em.
Lạy Chúa, qua bài Phúc âm của ngày lên đường hôm nay, con đã nhận ra không phải một lần Chúa chạnh lòng thương, mà Chúa luôn luôn tỏ lòng thương xót đến những người bệnh tật, chữa lành tất cả bệnh tật về phần xác cũng như phần hồn. Chúa cho họ có của ăn khi họ đói khát. Trong bài đọc Ds 11,4b-15 Chúa đã cho họ của ăn, cho Manna từ trời xuống để nuôi dân trong Sa mạc, cho nước từ mạch đá chảy ra để cho họ uống, cho chim trời từng đàn rơi xuống để họ có thịt ăn theo như đòi hỏi của họ. Thế mà họ vẫn than trách Chúa vì Chúa đã đưa họ ra khỏi Ai-Cập, giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ.
Lạy Chúa, hình ảnh kêu than, trách móc của họ là hiện thân của chính con. Cũng như họ, Chúa đã ban cho con biết bao ân tình. Chúa luôn yêu thương con. Chúa luôn săn sóc con. Trên con đường đời con đi, bao lần con vấp ngã, Chúa nâng con dậy và âu yếm bế con vào lòng và đưa con về. Bao lần con đói khát ơn thánh Chúa, Chúa lại đổ vào lòng con nguồn hoan lạc của tình yêu Chúa. Bao lần con xa cách Chúa, chạy theo đam mê vật chất, danh lợi thế gian, Chúa lại tìm kiếm, đưa con về đường ngay nẻo chính. Bao lần con đã phản bội Chúa, Chúa vẫn thứ tha, vẫn giang rộng hai tay chờ đón. Trái tim Chúa vẫn luôn bỏ ngõ để con có thể tìm về ẩn náu! Chúa ơi, sao Chúa yêu con quá vậy. Chúa đã chết cho tội lỗi của con lại còn ban bánh Trường Sinh là chính Mình và Máu Thánh Chúa để nuôi sống con qua Bí Tích Thánh Thể! Con có là gì trước mặt Chúa đâu? Vậy mà, Chúa còn muốn con là cộng sự viên của Chúa nữa chứ. Chúa muốn con giúp Chúa cho anh em con của ăn, săn sóc họ khi họ đau yếu bệnh tật. Chúa muốn con là cánh tay nối dài của Chúa để đem tình yêu của Chúa đến với anh chị em con! Lạy Chúa, con bất xứng. Xin Chúa hãy xử dụng con theo thánh ý Chúa.
Ngày hôm nay, con đang trên đường về quê hương của Thánh Gia, xin Chúa chỉ cho con từng bước, từng bước những gì Chúa đã làm để con chứng kiến tận mắt tình yêu thương mà Chúa đã giáng trần để ban ơn cứu độ cho con.
Lạy Chúa, con dâng lên Chúa ngày hôm nay với trọn vẹn niềm vui của một chuyến hành hương Đất Thánh.
Máy bay cất cánh. Lên cao. Lên cao mãi. Nó bỏ lại thành phố Toronto như một biển ánh sáng đẹp tuyệt vời. Con thầm cám ơn Chúa đã cho con có một quê hương thứ hai thật thanh bình và đầy tình người! Lòng con rất đổi xôn xao, chỉ mong máy bay chóng đáp xuống để con được đặt chân lên phần đất mà Chúa đã hứa cho Tổ Phụ Abraham.
Ngày thứ Ba (Aug 04, 2009) Sau một đêm bay trên bầu trời, máy bay hạ cánh an toàn xuống phi trường Tel Aviv lúc 2:30 chiều giờ Israel. Lòng con rộn ràng niềm vui khó tả! Đoàn hành hương chúng con lên xe bus để đến Jêricho. Xe chạy qua bao là núi đồi, con chỉ thấy núi đá chập chùng, không một bóng cây. Sa mạc của xứ Giudea là đây. Núi đá hùng vĩ! Dưới cái nóng như thiêu như đốt, con liên tưởng đến Chúa phải vất vả ngược xuôi để đem Tin Mừng cho dân chúng. Thương Chúa quá!
Xe ngưng ở Jaffa, chúng con vào viếng đền thờ thánh Phêrô. Nơi đây thánh Phêrô đã có thị kiến: Chúa bảo Phêrô bắt ăn tất cả những côn trùng. Cũng chính nơi đây, thánh Phêrô đã làm phép lạ chữa bà Tahiba (người ngoại giáo) sống lại. Cha Thiết còn giải thích thêm từ Joppe này, thánh Phêrô được gia nhân của Cornelio thỉnh mời đến Cesarê để rao giảng Tin Mừng cho gia đình ông : đó là dấu chỉ Chúa muốn thánh Phêrô không phải chỉ đem Tin Mừng cho người Do Thái, mà còn phải loan báo Tin Mừng cho tất cả các dân ngoại nữa.
Con cám tạ ơn Chúa, vì nhờ vậy mà con mới được làm con Chúa, mới được biết Chúa là Cha đầy lòng yêu thương.
Tiếp đến, xe chạy đến Jericho và dừng lại chỗ có cây sung thật già nơi mà trong Kinh Thánh đã nói đến ông Jakêu leo lên để được nhìn thấy Chúa vì dân chúng đông quá. Đây là bài học cho con vì: Phúc cho ai tìm kiếm Chúa thì sẽ gặp được Chúa. Khi đã gặp Chúa, có Chúa thì Chúa sẽ biến đổi trái tim chai đá, trái tim bất chính trở thành trái tim thịt mền, trái tim biết cho đi, biết yêu thương, biết quên mình.
Lạy Chúa, tim con còn yếu đuối. Xin Chúa bơm thêm lòng mến Chúa vào tim con để con không sống ích kỷ cho bản thân mình, mà phải biết cho đi, biết chia sẻ những gì mình có cho anh em con. Giêricô không cách xa quán Samaritanô trong sa mạc Giudêa là bao nhiêu, vì thế tại Jericho này Chúa đã dạy con phải biết yêu thương, cứu giúp người đau yếu hoạn nạn qua dụ ngôn người Samarita nhân hậu.
Chúng con đã nghỉ đêm tại Jericho.
Sáng thứ Tư (Aug 05, 2009), sau Thánh lễ để có Chúa cùng đồng hành, Cha Thiết hướng dẫn chúng con đi Qumran, nơi những bản kinh Cựu Ước viết bằng tay trên những tấm da cừu. Người Do Thái cuộn lại và bỏ vào những cái hũ (giống như cái chum) từ 100 năm trước Chúa Giáng Sinh. Những bản kinh này đã bị chôn vùi, nhưng đến năm 1947, người ta tình cờ đã tìm thấy và cất giữ để lưu truyền cho hậu thế. Đặc điểm ở đây cha muốn nhấn mạnh đến ơn linh ứng của Chúa Thánh Thần và sự lưu truyền Lời Chúa từ đời này sang đời kia một cách trung thành không thể tưởng tượng nổi : Vì đem những bản Thánh kinh chúng ta đang có bây giờ là cháu chắt chút chít của Bản thánh kinh thế kỷ thứ X sau Kitô so với những bản Thánh kinh cũ của Qumran vào thế kỷ thứ hai trước Kitô thì thấy đều giống nhau.
Rời Qumran, đi dọc theo biển chết và trở về để lên núi 40 (Quarantena). Gọi là núi 40 vì để kính nhớ việc Chúa đã ăn chay và cầu nguyện 40 đêm ngày trên một núi trong sa mạc Giudêa này trứơc khi ra đi loan báo Tin Mừng. Vì núi cao, nên phải dùng Cap để đưa mọi người lên. Càng lên cao, càng nhìn thấy một hoành thể núi đá vô cùng vĩ đại. Có những hang động để những đan sĩ khi xưa ẩn tu. Đoàn hành hương lên đến tận tu viện của các tu sĩ Chính Thống Giáo. Tu viện này đã có từ thế kỷ thứ 4 và đã bị người A-Rập phá hủy. Sau đó, tu viện lại được tìm thấy và được trùng tu bởi Đạo Binh Thánh Giá. Nhưng rồi tu viện lại bị lãng quên qua nhiều thế kỷ. Mãi cho đến năm 1875, tu viện được Chính Thống Giáo tìm thấy và chiếm giữ cho tới ngày nay. Hiện giờ vẫn còn có các thày sống khổ hạnh trên núi để giữ gìn nơi thánh. Nơi đây chỉ có núi đá và núi đá. Cây cối không mọc nổi. Chúa đã đến vùng này để ăn chay và cầu nguyện.
Lạy Chúa, lúc vừa đến phi trường, con không hiểu tại sao đoàn hành hương lại về Jericho? Bây giờ con mới hiểu. Cha Trưởng ban tổ chức muốn đưa chúng con đến đây để bắt đầu cho chuyến hành hương. Có nghĩa là chúng con phải trở nên như Jakeu. Chúng con phải cố gắng leo lên cao như ông Jakêu để tìm gặp Chúa trước. Vì nếu có cố gắng kiếm tìm thì Chúa mới chạnh lòng thương như Chúa đã chạnh lòng thương ông Jakêu và đã ở lại nhà ông. Ôi hạnh phúc cho ông, cho những ai ao ước được tìm đến Chúa! Cũng núi 40 này nhắc nhở Chúa đã muốn chúng con nếu muốn đi theo Chúa thì việc trước hết phải làm là cầu nguyện. Con phải cầu nguyện trước khi con bắt đầu một công việc gì. Cầu nguyện liên lỉ. Không phải chỉ một ngày mà kéo dài mãi mãi. Con có kết hợp mật thiết với Chúa thì con sẽ có niềm vui và sức sống vì luôn có Chúa ở cùng!
Chúa ơi, lên núi 40 này, con thấy được những kỳ công trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Chỉ có Chúa mới có thể sáng tạo những kỳ quan vô cùng to lớn như vậy. Con cám tạ Chúa đã cho con hai con mắt để ngắm nhìn những vẻ đẹp kỳ diệu. Những trùng trùng điệp điệp của núi đồi. Những bao la của biển khơi. Những huy hoàng của muôn triệu ngàn tinh tú. Những muôn hình vạn trạng cảnh sắc khác nhau. Tuyệt vời hơn hết, đó chính là sự sống của muôn vật. Nhưng trên hết của sự tạo dựng là sự kỳ diệu khi Chúa tạo dựng nên chính con người chúng con. Con cũng cám tạ Chúa vì đã cho con đôi chân để đi. Nếu không có chân làm sao con có thể đi được để đến nơi mà chính Chúa cũng đã dùng đôi chân để rảo bước!
Buổi chiều, cha Thiết đã dẫn cả đoàn đến tắm tại Dead Sea (Biển chết). Tức cười lắm. Cha nói: "Anh chị em ngâm mình tắm chỗ nào thì trẻ chổ đó...". Ai cũng vui vẻ và chạy ào xuống biển. Vì nước biển mặn gấp hơn 6 lần những biển khác nên khi xuống tắm, người chỉ nổi lên chứ không bao giờ bị chìm. Các bà các cô tha hồ lấy bùn trét lên mặt, lên lưng để cho da thịt mềm mại hơn, đẹp hơn. Cho nên người nào người ấy cũng đen thui, trông hết sức ngộ nghĩnh! Con không đọc được ý muốn của mọi người muốn trẻ chỗ nào. Tuy nhiên tâm lý các bà chắc chắn đều mong sau khi tắm mặt sẽ trẻ đẹp hơn xưa, sẽ bớt đi những vết nhăn nheo của cuộc đời. Riêng con, trong lúc trầm mình dưới nước, con cầu xin Chúa thêm muối vào đôi chân của con (đôi chân của con rất đau, trước ngày đi một tuần con đã có ý định bỏ cuộc) để con có đủ sức chạy theo Cha Thiết vì cha đi rất nhanh! Và cũng thật kỳ lạ, vì sau khi tắm con nhận thấy da của mình mịn màng hơn. Còn trẻ đẹp hơn hay không thì chưa thấy. Con chỉ thấy cha Tuấn, cha Tuyển đen hơn trước! Con lại sợ sau khi tắm con cũng bị đen như hai cha thì chết! Và cám tạ ơn Chúa vì đôi chân đau nhức của con đã giảm đau và con đã có thể chạy theo cha Thiết để không bị mất một nơi nào.
Tóm lại, tại Jericho này con ghi nhớ những điều như sau:
Phải luôn tìm cách để được gặp Chúa (qua Phép Thánh Thể và qua anh em), Cầu nguyện, ăn chay hãm mình, Phải biết chạnh lòng thương.
Xế chiều, đoàn hành hương lại trở về miền Bắc, về miền Nazareth là quê hương của Thánh Gia. Xưa kia Nazareth là một miền quê nghèo đến nỗi không có tên trên bản đồ. Thế mà Chúa đã nhận chốn này làm quê hương. Kỳ lạ!
Đến khách sạn thì trời đã tối. Tất cả mọi người nhận phòng, tắm rửa ăn uống, ngủ nghỉ để sáng hôm sau còn có sức tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng một số các anh chị đã nhìn thấy Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Truyền Tin, nên rủ nhau đi thăm Mẹ. Đi bộ đến nơi thì đã hết giờ nên không vào được, đành phải dạo phố rồi về phòng!
Sáng ngày thứ Năm (Aug 6, 2009) thăm viếng vùng biển hồ Galilée, nơi Chúa tuyển mộ các tông đồ và cũng tại nơi đây sau khi sống lại Chúa hiện ra cho các tông đồ và trao quyền cai quản Giáo Hội cho Thánh Phêrô. Tại đây, con có được cảm nhận như chính Chúa đã nhiều lần hỏi con: Ph con có yêu mến Cha không? Không phải Chúa hỏi con 3 lần như Chúa đã hỏi thánh Phêrô mà đã có rất nhiều nhiều lần Chúa tha thiết hỏi con. Có khi con trả lời một cách hời hợt: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Nhưng cũng nhiều lần con tránh né câu trả lời. Những lần như thế, con thấy ắnh mắt Chúa buồn lắm. Trong đời sống gia đình nhiều khi con hỏi con của con, con có yêu mẹ không? Nếu nó chạy lại ngả vào lòng con, hôn lên má con và nói con yêu mẹ lắm. Những lúc ấy tim con rộn ràng, và con cảm thấy hạnh phúc vô biên. Chúa ơi, con nghĩ Chúa cũng thế, Chúa chỉ muốn con chạy vào lòng Chúa và nói với Chúa: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Dù lời nói của con vẫn còn bập bẹ như em bé, nhưng chắc chắn Chúa vui nhiều lắm. Lạy Chúa xin thêm lòng mến cho con.
Cha Thiết lại đưa chúng con lên núi Bát Phúc (Mt Beatitudes) và dâng lễ nơi đây. Ôn lại lời Chúa trong tám mối Phúc Thật (Mt 5:1-8)
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hỏa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thày mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Qua đoạn Tin Mừng trên, Chúa đã hứa cho con Được tất cả, nếu con tuân giữ những điều trên. Trong đời sống hàng ngày, nhất là xã hội chạy theo vật chất, theo chủ nghĩa cá nhân, làm sao con tránh khỏi những cám dỗ. Biết bao lần, con trách Chúa vì sao con thiếu cái này, không có vật kia, vì sao những người gian manh ác đức thì họ lại được giàu sang phú quý. Còn con theo Chúa để được cái gì. Những lời hứa Chúa dành cho kẻ theo Chúa có vẻ xa vời với thực tế quá! Tuy nhiên niềm xác tín trong con là khi con tuân giữ những giới răn của Chúa, không làm điều xấu, không gian tham, không xảo trá, con thấy tâm hồn con thật bình an, dù mình có nghèo hơn người khác. Đó chính là niềm hạnh phúc cho tâm hồn con.
Rời núi Bát Phúc, chúng con đến viếng thăm nơi Chúa làm phép lạ 5 chiếc bánh và hai con cá để nuôi hơn 5000 ngàn đàn ông không kể đàn bà và con nít. Cha đã cho chúng con biết Chúa luôn luôn động lòng thương. Thấy dân chúng đói khát, Chúa chạnh lòng thương và kêu gọi sự đóng góp của mọi người để cho họ có của ăn. Cũng nơi đây, suốt đêm vất vả thả lưới, các môn đệ đã không bắt được một con cá nào. Chúa đã hiện ra bảo các ông thả lưới bên phải thuyền. Các ông tin theo và phép lạ đã xảy ra, họ đã lưới được nhiều cá. Tất cả là 153 con. Con số này là tổng số cho những con số tượng trưng của các mẫu tự Do thái - mỗi mẫu tự có một con số tương ứng - và khi cộng lại thì thành 153, các mẫu tự ấy làm thành câu nói "Ani Yahweh" (Adonai) nghia là "Ta là Thiên Chúa" trong tiếng Hebrew, danh xưng mà Thiên Chúa đã mặc khải cho Maisen từ bụi gai cháy rực trong sa-mạc Sinai . Qua hai sự việc xảy ra, Chúa đã dạy con hãy Tin và hãy cộng tác với Chúa để yêu thương những người cần đến. Nhiều khi con hay so đo khi cho người xin mình, hoặc nghi ngờ họ lợi dụng, hoặc nghi ngờ họ giả bộ, hay nghĩ họ là những người lười biếng không chịu đi làm... Vì có những suy nghĩ thiển cận như thế, nên con đã bỏ lỡ biết bao lần thực thi đức bác ái. Có lần có một linh mục bạn từ VN sang thăm con, luôn tiện xin giúp đỡ để xây nhà thờ vì nhà thờ đã muốn sụp! Chính con khi con trở về VN thăm Giáo Xứ của cha, con có gợi ý sao cha không xây nhà thờ khác kẻo nhà thờ sập thì nguy hiểm lắm. Chính vì thế khi cha sang đây, con đã cố gắng để xin anh em giúp ngài một tay. Cha đã nói với con một câu làm con suy nghĩ: Nếu làm để vinh danh Chúa thì dù có phải quỳ xuống để xin tôi cũng không ngại. Cha còn cho con thêm một cái nhìn khác: người Nhận là người đáng thương vì họ bị mang mặc cảm của kẻ chịu ơn, còn người cho có lẽ họ là người sung sướng vì được người khác biết ơn và đồng thời họ được Thiên Chúa xót thương! Lạy Chúa xin cho con có trái tim thịt mền để con luôn giống Chúa biết Động lòng thương.
Sau một buổi sáng đi thăm viếng thì bụng đã bắt đầu đói. Nên cha con kéo nhau đến nhà hàng để ăn cá Phêrô truyền thống. Lần đầu tiên một mình ăn một con cá thật to. Vừa ăn con vừa nghĩ con đang ăn với Chúa và suy nghĩ tại sao các Tông đồ vẫn còn nghi ngờ không biết có phải Thày mình không? Chúa đã nướng cá, bẻ bánh và cũng ăn với các ông? Thế mà tại sao các Tông đồ không nhận ra Chúa khi Chúa từ cõi chết sống lại? Tại mắt các ông bị che lấp bởi vinh quang của Chúa hay tại Chúa đẹp hơn, xấu hơn? Con thắc mắc hoài! Với con, vì đức tin của con chưa đủ nên con chưa nhìn ra Chúa qua anh em con, qua những người nghèo khó.
Chúng con lại lên đường để đến dòng sông Jordan, nhắc nhở nơi thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa. Nơi đây, con đã cảm nghiệm được bài học về đức Khiêm Nhường. Chúa là Thiên Chúa mà hạ mình để Gioan làm phép rửa như một loài thụ tạo. Thứ hai, Gioan đã nói về Chúa: Ngài đến sau tôi, nhưng có trước tôi. Tôi không đáng quỳ xuống cởi dây giày cho Ngài. Ôi lời nói của thánh Gioan cho con bài học về sự khiêm nhường thật sâu thẳm. Thánh Gioan đang được dân chúng theo đông lắm. Ngài rất có uy tín với dân chúng và các vua quan nể phục vậy mà Ngài đã hạ mình trước Con Thiên Chúa. Ngài đã không đưa mình lên. Ngài đã không dành dân cho chính mình, mà còn chỉ cho thiên hạ Đấng Đang đến giữa chúng ta...
Lạy Chúa, con không là chi, không là gì trước mặt mọi người. Thế mà con lại dám kiêu căng tự cao tự mãn! Nhiều khi làm được chút gì cũng muốn khoe khoang, cũng muốn mọi người biết đến. Đôi khi còn tự đưa mình lên, và chê bai người khác hoặc ganh tỵ với anh em khi họ làm được những việc hơn mình. Càng nghĩ càng thấy mình hợm hỉnh đáng chê. Xin Thánh Gioan Baotixita và Thánh Têrêxa Hài Đồng là gương mẫu về đức Khiêm Nhường cầu bầu cho con. Để con biết nhìn những yếu đuối trong con người con. Để con biết giới thiệu Chúa cho anh em con. Để Thiên Chúa phải lớn lên và con phải nhỏ đi. Để con nhận ra thân phận thấp hèn của con và nhờ thế con mới luôn bám vào Chúa.Vì lạy Chúa, Chúa chính là Chúa của con, là sức mạnh của con, là nơi con ẩn náu. Xin cứu con Chúa ơi!
Con đã được đi viếng nhà thờ Thánh Giuse, nhắc nhở về xưởng mộc của Ngài nơi Ngài đã vất vả làm lụng để nuôi Chúa lớn lên. Thăm thánh đường Thiên Thần Gabriel, Vị mà Thiên Chúa sai đến báo tin cho Mẹ. Tiếp tục cuộc hành trình, đi thăm Cana nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên: Nước hóa thành rượu tại tiệc cưới (Jn 2:1-11). Vì đã được dâng lễ vào buổi sáng nên tại đây các anh chị em nào đi có đôi được lên cung thánh để lập lại lời thệ hôn và được 4 cha ban phép lành trọng thể. Con có một chút buồn khi thấy các anh chị đi có đôi được diễm phúc đó, còn con thì đi mình ên nên không được cái cảm giác như đang được Chúa và Mẹ Maria cùng ngồi ăn tiệc với con. Tuy nhiên, con cũng đã hướng lòng lên Mẹ, xin Mẹ cầu cùng Chúa chúc lành cho các anh chị có mặt hôm nay và cũng van xin Mẹ cứu các gia đình đang gặp những khó khăn trong cuộc sống. Con nhớ rất nhiều về hai đứa con của con. Nhất là đứa út. Hôm nay là ngày đầu tiên cháu đi làm. Con cám tạ Chúa và con càng nhớ chồng con nhiều hơn, người mà luôn luôn nghĩ đến niềm vui của người khác. Đã mấy lần hy sinh ở nhà để con được đi chơi đây đó. Xin Chúa và Mẹ gìn giữ Gia đình con! Có một điều làm con vui hơn hết. Đó là suốt đêm qua, anh chị em trong nhóm của chúng con cố gắng moi trí nhớ bài hát Hoa Nở Miền Cana (nhạc và lời của Phanxicô) để hôm nay hát. Nhưng hoàn toàn bất lực vì không ai nhớ được mặc dù bài hát đó chúng con đã hát rất nhiều lần. Thế mà hôm nay, tại nơi này, khi các anh chị em lên cung thánh thì có một soeur người Phi đã hỏi con: Có ai biết hát bài này không? Soeur đưa bản nhạc Hoa Nở Miền Cana. Nhìn thấy bản nhạc, con vui mừng quá đỗi. Con cám ơn Chúa vì Chúa thấy được lòng ao ước của chúng con và Chúa đã cho sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng của con. Thế là con mạnh dạn lên đứng bên cạnh soeur. Soeur đã đệm đàn và một số anh chị em chúng con cất tiếng hát. Chắc chắn tiếng hát của chúng con rất vụng về. Nhưng con hát với tất cả lòng biết ơn Chúa, với tất cả niềm vui mà con dâng lời cầu nguyện cho anh chị em con (Lần sau nếu có thể, xin các đoàn hành Hương Thánh Địa nhớ mang theo bản nhạc Hoa Nở Miền Cana vì mỗi nước họ đều có một bản nhạc cho tiệc cưới. Soeur người Phi là người đệm đàn cho các sắc tộc để họ hát và soeur đã có bản nhạc tiếng Việt Hoa Nở Miền Cana). Sau đó, tất cả đi qua tiệm rượu và được nếm thử rượu Cana. Uống rượu free vì cha Tuyển đã trả tiền phải không cha? Con rất vui với câu hài hước đó! Ai cũng mua một vài chai để về làm quà cho bạn bè.
Rời Cana, chúng con lên núi Tabor nơi Chúa Hiển Dung. Vì đường lên núi nhỏ hẹp lại quanh co uốn khúc nên xe bus không đi dược, phải dùng taxi để đưa lên. Hơi hồi hộp vì tài xế taxi lái quá nhanh mà đường thì quanh co khúc khửu. Chúng con lên đến đỉnh núi kính nhớ việc Chúa đã đưa 3 môn đệ thân tín "lên một ngọn núi cao" tỏ cho các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa (Mt 17; 6-13). Cha Thiết đã dùng từ Chúa Hiển Dung như trong bản dịch Kinh thánh của nhóm Phụng vụ Giờ kinh thay cho từ Chúa Biến Hình mà từ xưa đến nay mình hay xử dụng. Cha đã giải thích từ "Hiển Dung" tức là dung nhan Chúa tự tỏ sáng, mà không thay đổi, nghĩa là Chúa vẫn tại vị cùng với tiên tri Elijah và Moses chứ không biến dạng mà mặc lấy một hình hài nào khác, cũng như khi chúng ta trong con đau khổ mà cầu nguyện thì chúng ta vẫn can trường đứng tại chỗ khổ đau của chúng ta mà vẫn chịu đựng được với niềm vui hoan lạc thì đó là chúng ta cùng hiển dung với Chúa ; hoặc là khi ta bị dồn ép bởi trách nhiệm nặng nề mà không chạy trốn, không thoái thác mà vẫn kiên trì tại vị chấp nhận vác thập giá với một tinh thần siêu nhiên chiến thắng được tính yếu hèn muốn đào ngũ hay từ nhiệm, thì cũng là giây phút và trạng thái hiển dung của chúng ta nhờ Đức Tin và cầu nguyện như Chúa. Núi cao, bầu trời trong xanh, không khí trong lành và thanh thoát.
Lạy Chúa, có phải Chúa muốn con hiểu rằng muốn hưởng vinh quang của Chúa con phải đi đường hẹp, khó khăn để đạt được không? Con như thấy con đang nằm mọp dưới đất khi nhìn thấy vẻ đẹp của núi thánh. Con giống như thánh Phêrô xưa khi nhìn thấy vinh quang của Chúa. Ông đã xin dựng 3 lều. Một cho Chúa và hai tiên tri. Có lẽ ông không muốn trở xuống núi. Biết bao lần con cũng vậy, gặp đều vui, gặp ngày tốt con muốn kéo dài cuộc vui đó và muốn thời gian dừng lại nơi đó. Trong đời sống hàng ngày khi gặp điều vui thích, con vui mừng hớn hở. Nhưng khi gặp buồn phiền, gian nan con chán nản lo âu và thất vọng..! Con đã quên, theo Chúa là phải đi trên con đường hẹp. Lạy Chúa cho con nhận ra thánh ý Chúa.
Thăm đền Chúa cho con bà goá thành Neim sống lại. Nơi đây, vẫn còn một nhà nguyện nhỏ để ghi nhớ Lòng Thương Xót của Chúa vì Chúa luôn chạnh lòng thương đến những người gặp đau buồn, khốn khổ. Lòng con, trong giây phút này cảm thấy có một sự mất mát cho Giáo Hội vì những nơi chứng kiến việc Chúa làm, những kỷ niệm của Chúa mà lại không có người trong Giáo Hội bảo quản. Có khi bị lãng quên như nơi Đền Thánh này. (Nơi này hiện nay được một gia đình Hồi Giáo trông coi, để mở cửa cho khách hành hương chứ không có phần mục vụ).
Chúng con trở về Hotel để nghỉ đêm sau một ngày "chạy" theo cha Thiết. Trong lúc ăn cơm tối tại hotel thì cha Tuấn thông báo có một khách đặc biệt tới thăm. Mọi người chờ đợi xem ai? Một người đàn bà bé nhỏ bước vào. Cha Tuấn giới thiệu đây là vị nữ tu Việt nam duy nhất tại Do Thái. Soeur đã ở nơi đây 51 năm, xuất thân từ một gia đình giàu sang danh giá tại Hà Nội. Năm 18 tuổi soeur dâng mình cho Chúa và năm 21 tuổi lên đường đi truyền giáo và được đưa đến nơi xứ lạ quê người (Israel). 51 năm phục vụ. 51 năm quên mình lặn lội săn sóc những ngưòi nghèo khó, bệnh tật. Lấy niềm vui của người làm niềm vui của mình. Lấy quê hương xứ sở của người làm của mình... Soeur tâm sự, soeur nhớ quê VN nhiều lắm nhưng chưa có cơ hội trở về thăm quê hương. Soeur vui mừng vì gặp được nhóm hành hương VN lần này. Soeur ơi, khi con đang viết đoạn này hai hàng nứơc mắt con lăn dài trên má vì con cảm thấy thương soeur vô cùng. Soeur đã tận hiến cả một đời để ra đi phục vụ. Sơ đã bị quên lãng bao nhiêu năm không ai nhớ đến. Con nghĩ ngay cả giáo hội VN cũng không nhớ nơi phương xa đang có một ma soeur bé nhỏ đang phục vụ cho người nghèo khó và rất nhớ quê hương. Soeur như một loài hoa dại nép mình trong vách núi, có ai thấy đâu. Thế mà niềm vui của soeur luôn rạng rỡ. Nhìn gương mặt hiền lành, vui vẻ của soeur, con nhận ra niềm vui của soeur là có Chúa trong soeur và chính sức mạnh tình yêu của Ngài đã giúp soeur vượt qua những khó khăn những thách thức trong phục vụ. Con băn khoăn suy nghĩ suốt đêm. Các tông đồ bỏ hết mọi sự theo Chúa. Soeur cũng vậy, bỏ tất cả tuổi thanh xuân, danh vọng, ngay cả gia đình cha mẹ bà con để qua xứ người phục vụ. Để được gì? Con vẫn chưa tìm ra câu trả lời!
Mặc dù đêm đã khuya, nhưng chúng con đã tháp tùng soeur đi thăm nhà của soeur. Soeur đang sống với một soeur người Balan và một soeur người Pháp. Vào nhà nguyện của các soeur, nhìn trên bàn thờ có Mình Thánh Chúa, con thực sự xúc động vì con nghĩ Chúa chính là niềm vui sống của các soeur, là lương thực nuôi sống cuộc đời của các soeur phải không soeur QUY, người mà con kính phục và thương yêu. Chắc chắn soeur không nhớ con, nhưng con nhớ soeur rất nhiều. Trong lòng con, soeur chính là Mẹ Thánh Têrêxa thành Calculta (Ấn Độ) trong thế hệ của con đang sống. Con cầu nguyện cho soeur nhiều lắm và con cũng ao ước nếu những lần sau cha Thiết có dẫn đoàn hành hương nào đến Nazareth thì nhớ đến thăm soeur- Một người con xa xứ! Con cũng quên một điều: soeur chính là người được cha Thiết ủy thác làm những bản kinh bằng tiếng Việt như Kinh Linh Hồn Tôi (Magnificat), Kinh Benedictus để góp mặt với tất cả các kinh trên thế giới đặt lên tường những nơi có thánh tích.
Sáng sớm ngày thứ Bảy (Aug 08, 2009) trong lúc ăn điểm tâm để lên đường, soeur Quy lại đến thăm để chào từ giã. Giây phút này thật cảm động. Soeur đã tặng cho mỗi người một bịch hạt cải. Loại hạt mà trong Phúc Âm Chúa có nói về Nước Trời giống như một hạt cải (rất nhỏ bé, nhỏ như đầu mũi kim). Vậy mà khi cây lớn thì thật to, chim trời có thể đến làm tổ. Trên đường đi cha Thiết đã chỉ cho thấy cây cải to như thế nào. Con cám ơn soeur vì nếu soeur không tặng những hạt cải bé tí đó và cha Thiết không chỉ cây cải là cây to đó, thì con cũng không thể hình dung ra được. Hôm nay hành trình trên đường về Jerusalem thủ đô cổ của dân Do Thái. Đoàn đã ghé thăm Haifa, một thành phố rất đẹp và là thành phố lớn thứ ba sau Jerusalem và Tel Aviv. Đến viếng vườn thượng uyển, cây cỏ được dày công cắt xén. Thành phố khá đẹp vì lối kiến trúc tân kỳ!
Lên thăm đỉnh núi Carmel nơi khi xưa tiên tri Elijah thách thức với các tư tế thầy Baăl và tiên tri Elijah đã thắng. Ông đã chứng minh cho dân chúng thấy một Thiên Chúa ông tôn thờ mới là Thiên Chúa duy nhất và đích thực. Sau đó đoàn hành hương dự thánh lễ tại nhà thờ Đức Mẹ Sao Biển (Church of Stella Maris). Nơi này khi xưa là một bến cảng rất nổi tiếng, là cửa ngỏ của giao thông đường biển, cho tàu bè cập bến vì thế họ đã tôn vinh Mẹ như đấng bảo trợ, phù trì.
Đi Caesarea, thành phố nằm giữa Haifa và Tel Aviv, là thủ phủ của tỉnh Palestine thời người Roma cai trị Israel vào thời Chúa Giêsu. Vua Herode (người đã ra lệnh giết các trẻ hài Nhi mới sinh để trừ hậu họa, khi được Ba Vua cho biết Chúa Giêsu đấng Cứu Thế đã giáng sinh) là người đã đi du học tại Rome từ nhỏ. Ông đã thu thập những kiến trúc, những văn minh của người đem về nước. Ông xây dựng thành phố, cho dân chúng được hưởng những tiện nghi như dân thành Rome. Một trong những công trình còn lại là rạp hát Caesarea và một cầu dẫn nước Aqueduct , ở giữa chũng xuống như cái máng vậy. Cầu này lấy nguồn nước ngọt từ triền núi Carmel đưa về thành phố. Cầu dài 13 cây số. Trải qua bao thế hệ, bị động đất v.v... cầu vẫn còn lại một khúc như một di tích lịch sử.
Buổi chiều, đi thăm nhà thánh Jacaria và Elizabeth, thân sinh Thánh Gioan tiền hô. Ông là một Tư tế có thế giá trước mặt dân Israel và là người thay mặt dân để tế lễ Thiên Chúa. Từ dòng dõi ông, Chúa đã cho một đại tiên tri xuất hiện để dọn đường cho đấng Cứu Thế. Đó chính là Gioan Tẩy Giả. Mẹ Maria sau khi được Thiên Thần Gabriel báo tin Mẹ được chọn để cưu mang đấng Cứu Thế. Sau khi biết bà Elizabeth chị họ của Mẹ cũng đã có thai được 6 tháng mặc dù tuổi bà đã khá cao. Thế là Mẹ vội vã lên đường. Từ Nazareth về Jerusalem cách xa hơn trăm cây số. Mẹ phải trổi qua bao là núi đồi để đến thăm bà Elizabeth bằng đường bộ. Con hình dung Mẹ ngồi trên lưng lừa dưới trời nắng gắt, chắc Mẹ mệt lắm vì Mẹ cũng đang mang thai. Hành trình đường bộ kéo dài, chắc cả tháng mới tới nơi. Con vẫn còn đặt những dấu hỏi trong đầu: Tại sao Mẹ vội vã ra đi thăm viếng? Tại sao thánh Gioan lại từ bỏ cuộc sống ấm êm sung sướng của một cậu công tử con của vị Tư tế để vào rừng ẩn tu. Thức ăn chỉ có mật ong và châu chấu. Mặc áo lông lạc đà . Khi ra rao giảng cho dân chúng thì kêu gọi mọi người ăn năn thống hối vì nước Trời gần đến. Ông được dân chúng nghe và theo ông. Ông được vua quan dân chúng nể phục và kính trọng. Như thế chắc chắn ông sẽ có một tương lai huy hoàng. Thế mà Gioan đã không nhận mình là Đấng dân chúng chờ mong. Ông đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu, "Đấng đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, mà tôi không đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài". Gioan đã chấp nhận để làm người đi trước Chúa và tự cho mình như một tôi tớ bất xứng trước mặt Chúa vậy thì Gioan được gì? Chưa thấy có phần thưởng nào dành cho Gioan mà chỉ thấy vì sự chính trực của Gioan, giữ lề luật của Thiên Chúa mà Gioan đã bị chém đầu! Chết oan uổn! Những ưu tư, những thắc mắc của con vẫn còn nằm đây. Thôi con phải chạy theo cha Thiết để lên đền thờ Đức Mẹ Thăm viếng. Muốn lên nhà thờ này con phải leo lên từng bậc, từng bậc thoai thoải rất xa và con cảm thấy mệt, chỉ muốn ngồi nghỉ hay bỏ cuộc. May quá anh Thạc đã theo kịp và con nhờ vịn vào tay anh Thạc để lên đến nơi. Con phục cha Thiết quá. Cha đã có tuổi thế mà cứ đi như bay, leo lên vun vút. Con nghĩ có lẽ Chúa Thánh Thần kéo cha lên chăng? Có gì mà Thiên Chúa không làm được phải không thưa cha?
Đền thờ Mẹ thăm viếng, có hình Mẹ và bà thánh Elizaberth bằng đồng đen trước cửa. Con ngồi nghỉ mệt dưới chân Mẹ và thánh Elizaberth mà nghe lòng bồi hồi thế nào ấy. Con cứ nghĩ rằng Mẹ rất khổ sở vì đã đánh mất tuổi thanh xuân khi Mẹ nhận lời mời gọi làm Mẹ đấng Cứu Thế. Ở một làng quê nhỏ xíu, làm sao tránh được tiếng đời dị nghị hả Mẹ? Mẹ có bao giờ hối hận vì đã nhận lời không thưa Mẹ? Nhưng hôm nay đây cha đọc lại đoạn tin mừng (Lk 1:39-56) khi Mẹ đến chào bà Elizaberth thì hài nhi trong bụng bà nhảy mừng. Bà đã được tràn đầy Thánh Thần và cất tiếng nói với Mẹ rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người nữ. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em". Mẹ Maria đã cất tiếng: Linh Hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, đấng cứu độ tôi
Phận nữ tì hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới... (kinh Magnificat)
Mẹ ơi, Mẹ tuyệt vời quá! Mẹ đã tin những gì Chúa đã nói với Mẹ và Mẹ khiêm nhường nhìn nhận mình là nữ tì hèn mọn để Chúa xử dụng Mẹ. Mẹ rất vui vì Mẹ luôn có Chúa ở cùng. Mẹ ơi xin giúp con được lòng khiêm nhường thật sự. Vì khi có được sự khiêm nhường, con mới có sự tín thác. Và khi con đã tín thác hoàn toàn vào Chúa, con sẽ để Chúa hoạt động trong con và dùng con theo thánh ý của Ngài. Con từ giã Mẹ và Thánh Elizaberth để xuống núi. Lòng nhẹ nhõm thênh thang. Con bắt đầu với một trái tim mới: Xin ơn khiêm nhường để nghe được tiếng Chúa mời gọi.
Đến hotel để ăn tối và ngủ đêm đầu tiên tại Jeruselem.
Sáng chủ Nhật (Aug 09, 2009) đi Bethlehem nơi Chúa Cứu Thế giáng trần. Khu vực này thuộc chính quyền Palestine cai quản nên cần phải có Passport để qua vùng biên giới. Thời Chúa Giêsu chưa có việc phân chia hai quốc gia như hiện nay, nhưng luôn luôn có tranh chấp giữa các chi tộc Do Thái. Chúa đã tha thiết cầu xin Chúa Cha cho chúng nên một như Cha và Con là một. Qua khỏi trạm kiểm soát, xe tiến vào thành phố Bethlehem. Lại phải lội bộ leo lên núi. Con thầm trách xứ sở gì toàn là núi, chỗ nào cũng phải leo núi. Leo lên tận nhà thờ, con như muốn xỉu. Đang sắp hàng để vào viếng hang đá thì phải trở ra vì khách hành hương đông quá là đông. Cha sợ bị mất thánh lễ ở Hang Mục Đồng nên phải trở xuống. Con than thầm trong bụng vì nghĩ đến buổi chiều lại phải trở lại đây rồi lại leo lên núi này nữa thì chắc con chết mất.
Con rất cảm động vì được tham dự thánh lễ tại nơi tưởng nhớ Thiên Thần báo tin Chúa Hài Nhi Giáng Sinh: Hãy đến mà thờ lạy Ngài, và cùng với các đạo binh thần thánh trên trời cất tiếng hát Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thuong. Một thánh lễ Giáng sinh thật ý nghĩa được cử hành chính nơi mà hơn hai ngàn năm trước Chúa đã từ trời cao hạ mình xuống Làm Người để ở với nhân loại. Nơi đây con cảm nhận niềm vui thật ngọt ngào khi Chúa đã làm thân phận con người như con. Chúa hoàn toàn đồng hóa như con và ở giữa thế gian đồng lao gian khổ như con. Con còn hơn Chúa vì con được sinh ra trong nhà, có chăn êm nệm ấm. Còn Chúa thì sinh trong hang bò lừa, nằm trên máng cỏ để sưởi ấm tấm thân. Cha Thiết đã cho chúng con một hình ảnh Đức Mẹ để Chúa nằm trong máng cỏ, mà cỏ chính là thức ăn nuôi sống bò lừa. Chính Chúa cũng là thức ăn nuôi sống dân Người. Sau lễ, chúng con lại trở về Vương Cung Thánh Đường Chúa Giáng Sinh. Lần này con cảm thấy nhẹ nhàng hơn và leo núi không còn thấy mệt như khi sáng. Sắp hàng thật lâu mới tới lượt đoàn của mình vào. Từ từ mỗi người cúi xuống chui vào hang đá nơi có một ngôi sao bạc 14 cánh đánh dấu chỗ Chúa nằm khi hạ sinh làm người. Ngôi sao 14 cánh biểu tượng cho 14 đời: Từ Tổ Phụ Abraham đến vua Davit, từ vua David đến thời bị lưu đày Babylon, từ Babylon đến thời Chúa Giêsu, mỗi thời đều 14 đời. Ngôi thánh đường này do Chính Thống giáo quản trị, gắn liền đền thờ Giáng Sinh là đền thờ thánh nữ Catarina do bên Công Giáo trông coi. Ngăn cách hai đền thờ bằng một tấm cửa gỗ. Cửa này chỉ được mở ra mỗi năm một lần vào ngày lễ Giáng Sinh để hai bên thông qua. Đặc biệt dưới lòng đất còn nhiều nguyện đường khác. Nhưng có một bàn thờ kính thánh Jerome. Thánh nhân đã trú ngụ suốt quãng đời còn l?i của mình dưới hầm hang đá này để dịch toàn bộ Kinh Thánh ra tiếng Latin, gọi là bản Vulgata (phổ thông). Một công trình vĩ đại Ngài đã để lại cho giáo hội.
Nhìn con dường hầm nhỏ bé và cánh cửa nhỏ ngăn đôi, con không biết Chúa có buồn khi nhìn thấy cảnh mà cùng tôn thờ một Chúa, nhưng lại tranh giành nhau từng nơi chốn, từng tấc đất, từng cảnh vật! Lòng con người vẫn còn ích kỷ quá, vẫn còn tham lam quá, vẫn còn đặt quyền lợi lên trên tất cả. Lạy Chúa, xin cho Giáo hội được hiệp nhất nên một. Con cũng kể qua về đền thờ này. Đây là một thánh đường còn nguyên vẹn được xây lại từ thế kỷ thứ 6, trải qua bao cuộc thăng trầm! Đền thờ không bị tàn phá bởi quân Persians khi họ xâm chiếm miền Palestine vì nhờ họ thấy trên ngưỡng cửa đền thờ có hình tượng ba vua đến thờ lạy Chúa, được tạc theo cách ăn mặc của người Persians nên họ đã giữ đền thờ nguyên vẹn. Tuy nhiên cửa chính vào đền thờ đã bị lấp lại và một cửa nhỏ hơn chỉ cao hơn một mét dùng để chui vào thánh đường. Mục đích họ muốn ngăn ngừa binh lính cỡi ngựa vào. Họ cũng giải thích là phải cúi mình xuống để vào chiêm ngưỡng Chúa.
Buổi chiều trở về Jerusalem. Từ bên Palestine trở về Jerusalem phải đi bộ qua một trạm kiểm soát của người Do Thái. Cảm giác sờ sợ như khi đi qua các đồn gác tại VN. Bức tường ô nhục ngăn hai xứ sở cùng là một anh em, một dòng tộc! Đoàn hành hương tiến vào thành Jerusalem, thăm thành phố cổ. Một đêm nữa ngủ tại Jerusalem.
Sáng thứ hai (Aug 10, 2009), thánh lễ đuợc cử hành tại đền thờ mộ Chúa. Sau đó mọi người lên núi cây dầu. Đoàn viếng thăm nhà thờ Chúa dạy kinh Lạy Cha, nơi đây đền thờ cũng đã bị tàn phá, chỉ còn lại nền đền thờ, cũng có tất cả các Kinh Lạy Cha với nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Kinh Lạy Cha bằng tiếng VN được đóng bên trong nguyện đường của các soeur dòng Kín nên chúng con vào trong nguyện đường mà chiêm ngắm! Sau đó đi kính viếng nhà thờ Gethsemane nơi có vườn cây dầu để tưởng niệm cái đêm cuối cùng Chúa cầu nguyện tại đây và đã bị Giuda nộp cho các thày Thượng Tế. Nơi đây hình ảnh Chúa cầu nguyện tha thiết "Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn mà làm điều Cha muốn" (Mc14:36) đã làm tâm hồn con bồi hồi khôn tả. Nhìn dưới chân bàn thờ họ tạc hai môn đệ đang ngủ, con đã đặt con vào nơi đó. Con cũng thích ngủ mặc dù Chúa luôn nhắc nhở con hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa ơi, con thật là đứa con tệ bạc. Lúc Chúa cần con bên Chúa để an ủi Chúa, để cầu nguyện với Chúa thì chính những lúc ấy con lại ngủ vùi trong đam mê, quên mất Chúa đang cần con! Từ đền thờ Gethsemane nhìn qua thành Jerusalem hướng cửa phiá Đông, con thấy hai cánh cổng thành đã bị lấp kín, gọi là cửa kim "golden gate". Bên ngoài là những ngôi mộ được chôn cất tại đây vì họ tin đến ngày phán xét, xác sẽ được sống lại và Chúa cũng sẽ đến từ cửa phía Đông để rước họ lên Thiên Quốc. Nhưng họ đã quên rằng, Chúa đã đến cứu họ hơn 2000 năm trước mà họ đã không nhận biết Ngài, đã không đón nhận Ngài (Gn:1 10-11). Chính cánh cửa phiá Đông của thành Jerusalem này, Chúa đã khải hoàn vào đền thánh trong ngày lễ Lá.
Nhìn lại tâm hồn con, con cũng đã được Chúa nhận làm con Chúa qua Bí Tích rửa tội. Con đã Được Chúa thương chữa lành mọi bệnh tật phần xác cũng như phần hồn. Con cũng đã được Chúa cho cơm ăn áo mặc một cách dư giả về vật chất. Còn của ăn nuôi sống tinh thần con, Chúa lại nuôi con bằng chính Mình và Máu Chúa trong phép Thánh Thể. Thế mà đã biết bao nhiêu lần con đã dửng dưng. Có khi con còn nghi ngờ và phủ nhận tình yêu vô bờ của Chúa, có khi con còn đóng cửa tâm hồn. Lạy Chúa, lòng con chùng xuống khi con nghĩ đến tình Chúa cho con và sự tệ bạc con dành cho Chúa! Lạy Chúa xin tha cho sự vong ân của con.
Suốt ngày hôm nay, cha dẫn đi hết chỗ này đến chỗ khác con không còn nhớ nơi nào trước nơi nào sau. Con chỉ xin kể lại những nơi đã đánh động lòng con nhất. Con đã đến thăm đền thờ nơi ghi dấu tích Thánh Phêrô Chối Chúa (Gallicantu: Tiếng gà gáy) Nơi đây một bức tượng bằng đồng rất nghệ thuật. Tượng này đã diễn tả đượcThánh Phêrô đang phân bua với người tớ gái: "Tôi không biết Người này". Con đã tinh nghịch cầm tay tên tớ gái và hùa với cô ta để làm khó Phêrô! Đang vui với ý nghĩ như thế, con chợt nhìn lên. Ồ, không được rồi, con gà đang đứng trên đỉnh trụ cột. Con vội rút tay lại để rồi nhìn lại chính mình. Con mới thấy chính con đã nhiều lần phản bội. Phêrô chỉ có 3 lần. Phêrô đã được thứ tha vì Phêrô đã can đảm nhìn lên Chúa và thống hối ăn năn. Còn con, biết bao lần con đã ngoảnh mặt đi, không muốn nhìn ánh mắt yêu thương van nài của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con đừng thất vọng. Xin cho con biết nhìn ánh mắt tha thiết mời gọi của Chúa để mỗi lần con vấp ngã, con lại biết chạy đến với Chúa, biết nhìn lên Chúa để con được bắt gặp ánh mắt đầy lòng xót thương của Chúa. Xin Thánh Phêrô cầu cho con với.
Rồi con theo đoàn để đến nhà tiệc ly, nơi Chúa lập bí tích Thánh Thể. Trong đầu, con tưởng tượng nơi ấy phải thật là chốn linh thiêng có nhà chầu để kính Mình và Máu cực thánh Chúa. Nhưng khi vào đến nơi, không như con tưởng. Con chỉ thấy một khoảnh nhỏ có một mặt bằng. Trên đó, có một cây làm bằng đồng để ghi dấu nơi đây vào đêm trước khi bị nộp, Chúa đã rửa chân cho các Tông đồ. Và Chúa đã nhắn lại lời trăn trối yêu thương: Các con hãy rửa chân cho nhau như Thày đã rửa chân cho các con (Gn 13,14-15). Đối diện với bàn thờ là một cái vòm chỉ hướng La Mecque mà mọi người Hồi giáo khi cầu nguyện phải hướng về, vì nơi đây đã một thời là một đền thờ Hồi giáo. Thật trớ trêu thay, vị vua Mahomet trần thế nay còn mai mất mà vẫn giữ lại cái ngai của mình, còn Vua trên các vua thì bị phá cho mất chứng tích. Sau đó đoàn vào viếng mộ Chúa, lên Núi Sọ và thật nhiều những nơi thánh tích khác. Con không biết diễn tả thế nào về tâm hồn con lúc bấy giờ, vì khi con nghĩ đến Chúa chịu trăm ngàn khốn khổ, từ khi sinh ra làm Người, ra đi rao giảng tin mừng cho muôn dân với bao là vất vả chua cay, sống nay đây mai đó, không một tảng đá gối đầu, làm bao nhiêu phép lạ, chữa bao nhiêu bệnh tật, cho người chết sống lại, cuối cùng chịu ngàn ngàn đòn vọt trên thân xác, chịu đóng đinh vào thập giá như một tội đồ, cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chết cho con, chết để đem ơn cứu độ cho chính con! Lạy Chúa mỗi lần con được hôn những nơi thánh tích của Chúa con được nghe Chúa hỏi con: Ph ơi, con đã tin Cha yêu con chưa? Mỗi lần như thế, con gục đầu xấu hổ!
Rồi chúng con đi đàng Thánh Giá, trên những đoạn đường Chúa đã vác thập giá năm xưa. Con không cảm nhận được một chút gì trên đoạn đường Thánh Giá này vì đường Thánh Giá như con vẫn tưởng là con đường gồ ghề, hai bên là cánh đồng hay cây cỏ chứ không phải đi qua những khu phố ồn ào như thế này. Hơn nữa vì đoàn mình đọc kinh theo địa phận nào mà lạ hoắc, con không cảm nhận được chút gì cả. Thưa cha Thiết, con ao ước giá mà đến mỗi nơi, cha chỉ cần vài lời nói về chặng đó, rồi gợi ý để chúng con tự mình tự vấn lương tâm hay tự mình suy gẫm trong lòng thì hay hơn là chỉ đọc khơi khơi. Tuy nhiên đó chỉ là một phiá nhìn của riêng con xin cha cũng đừng bận tâm.
Sau một ngày theo Chúa trên các nẻo đường Chúa đi qua, viếng thăm những nơi thánh tích, sau những lần xúc động bồi hồi, những lần vất vả chạy theo cho kịp doàn, con đã có một giấc ngủ thật say tại hotel, một đêm chót tại Jerusalem.
Sáng thứ Ba (Aug 11, 2009). Hôm nay ngày cuối cùng tại Jerusalem, buổi sáng có thánh lễ tại thánh đường Gethsemane nơi Chúa cảm nhận tột đỉnh đau thương của thân phận con người. Bấy giờ, Người nói với các ông: "Tâm hồn Thày buồn đến chết được. Các con ở lại đây mà canh thức với Thày" (Mt 26, 38). Cũng tại nơi đây, Chúa tha thiết van nài các con hãy tỉnh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say nhưng thân xác thì yếu hèn (Mt 28,41). Có phải ý Chúa muốn chúng con ngày chót ở nơi đây, để có một chút suy tư về thân phận yếu hèn của con người mình không? Và có phải cũng là lời nhắn nhủ cho chúng con: Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn mãi.
Buổi chiều, mọi người được tự do đi dạo phố mua sắm đồ kỷ niệm. Vì con hết tiền nên con chọn chạy theo Cha Thiết cùng với những anh chị em khác. Cha đi cầu nguyện và cha dẫn chúng con đi thêm vài nơi khác. Cám ơn Cha.
Đến chiều hẹn gặp nhau tại bãi cỏ trước cửa thành để chuẩn bị đi ăn tối và ra Phi trường trở về Toronto.
Để kết thúc những cảm nghiệm của con trong những ngày hành hương, con xin mượn bài Tin Mừng: Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Đồng. Sau khi họ được gặp Chúa và nghe lời Thiên Thần báo mộng họ đã đi đường khác mà trở về (Mt 2,1-12). Lạy Chúa, con cũng đã được đến tận nơi Chúa Xuống thế Làm Người để đem ơn cứu độ đến cho con. Con đã được cảm nghiệm tình Chúa ngọt ngào vô biên vô tận. Xin Cho con khi trở về, con sẽ không đi lại đường lối cũ mà con đã đi. Con phải thay đổi đường khác để đi! Xin Chúa cùng đồng hành với con, giúp con để con biết từ bỏ những đam mê trong lối sống cũ và có Chúa con sẽ tiến bước trên con đường mà Chúa muốn con đi. Lạy Chúa con yêu mến Chúa, con cảm tạ Chúa vì muôn vàn Hồng Ân Chúa đã ban cho con. Ngày nối tiếp ngày. HỒNG ÂN NỐI tiếp HỒNG ÂN.
Tâm tình ghi nhớ:
Kính thưa Cha Thiết, cha Thông, cha Tuấn và cha Tuyển rất quý mến.
Trên đây, là những cảm nghiệm của riêng con. Con viết ra để kính dâng lên Thiên Chúa lòng cảm tạ sâu xa của con, vì Chúa đã thương chọn con được làm con của Chúa trong Giáo Hội Công Giáo. Cảm tạ Chúa đã cho con hai con mắt còn sáng để con nhìn thấy những kỳ công của Chúa, những việc Chúa đã làm và vẫn còn tiếp tục làm qua Giáo Hội, nhất là qua các Linh Mục, tu sĩ Nam nữ trên khắp thế giới. Con đã nhìn thấy Chúa qua các cha cùng đồng hành với chúng con trong lần hành hương này. Cha Thiết hướng dẫn từng nơi chốn một cách rành mạch. Cha đã chỉ cho con biết ý Chúa nhiệm mầu, và cao hơn ý nghĩ của con người. Chúa dùng Caphanaum như cái nôi của công việc truyền giáo vì nếu Chúa cứ ở Jerusalem, cứ khư khư tuân giữ luật lệ của Do Thái giáo thì chắc chắn Tin Mừng không dược loan truyền trên toàn thế giới. Rồi những ưu tư của con như theo Chúa để được gì? Những người theo Chúa chỉ bị bắt bớ rồi bị giết! Đó là những suy nghĩ thiển cận của con. Nhưng nhờ cha, con đã sáng mắt vì nếu như Gioan Tẩy Giả có thành ông quan lớn, giàu sang và Phêrô có thành đầu mục những người đánh cá thì cũng chỉ là Gioan và Phêrô. Nhưng các ngài đã bỏ mọi sự đến nỗi chết để làm chứng cho Chúa thì ngày nay các ngài được thưởng trên nước Trời, tên tuổi các ngài sống mãi mãi và là tấm gương cho hậu thế. Con nghĩ vậy có đúng không thưa cha? Một cái nữa, con rất thích giọng cười của Cha. Giọng cười nó làm lòng người cảm thấy có sự thương yêu, sự cảm thông và chất chứa một sự bình an tuyệt vời. Một vài chị em cũng đồng ý với con và hỏi con tại sao cha được như vậy. Con đã trả lời vì Cha có Chúa trong Cha. Khi cha đi hành hương, khi Cha giải thích những việc Chúa đã làm, những nơi chốn Chúa đã đi qua tức là cha đưa mọi người đến với Chúa thì chắc chắn Chúa đang ở trong Cha và cha luôn mang Chúa cùng đi phải không Cha?
Cha Thông ơi, lần đầu tiên con được biết Cha. Dù cha rất ít nói, nhưng với con cha nói rất nhiều, cha đã nói cho con qua những hàng động của Cha. Từ cách cha kính cẩn đọc lời Chúa đến lòng sốt sáng của Cha mỗi lần cha dâng Thánh Lễ. Những khi cha chia sẻ lời Chúa. Con cám ơn Cha đã cho con có cái nhìn tốt về đời sống linh mục, một đời sống đơn sơ, thánh thiện. Cha có biết, có một lần cha ngồi bên ngoài không vào restaurant để ăn trưa. Khi con đang ngồi ăn, nhìn ra thấy cha bên ngoài, con thật sự không muốn nuốt cơm vì không biết cha bệnh không muốn ăn hay cha không có tiền để trả phần cơm. Cám ơn Cha, qua bữa sau thì cha ăn như chúng con, con vui lắm. Chắc cha không làm sao biết được có những anh chị em quan tâm tới cha. Tình yêu Chúa đã làm cho chúng ta quan tâm tới nhau phải không cha?
Cha Tuyển ơi ơi..., con phải kêu cha "ơi ơi" bao nhiêu lần mới phải. Từ ngày về đến Toronto đến nay hơn tháng rồi, không gặp được Cha, chưa nói được lời cám ơn cha, con cũng áy náy lắm chứ, nhưng chưa muốn vì con phải phạt cha vì lúc thì cha kêu con là O, lúc Mệ, lúc Mụ chả biết lúc nào cha cho mình trẻ, lúc nào biến mình thành bà cụ...! Tuy nhiên có một điều được đồng hành với cha trong những ngày hành hương con cảm thấy yêu mến cha thật nhiều vì sự quan tâm của cha đến anh chị em trong đoàn. Cha lo thăm hỏi người này, nói chuyện vui đùa với người nọ. Những câu nói đùa của cha nó tếu làm sao ấy. Cha đã đem những tiếng cười đến cho anh em. Nhưng khi Cha dâng thánh Lễ thì thật sốt sáng trang nghiêm, toát lên một tấm lòng kính yêu Thiên Chúa. Cha đã lôi kéo con sốt sáng theo. Riêng chuyện của con thì phải nói con đã làm cha lo nhiều hơn ai hết. Này nhé, chưa vào trong máy bay con đã bị rơi mất vé (Security checking). Họ không cho vào, con lo âu bị bỏ lại... Cha đã ở bên con để calm down con và cha đã nói "Nếu chị bị bỏ lại cha cũng ở lại". Đó là một lời trấn an thôi, nhưng con cảm thấy không bị bỏ rơi. Rồi khi từ Israel trở về, con lại đưa cha Thiết đi lộn chỗ, cha lại phải vất vả đi tìm mặc dù lúc đó cha đang xây xẩm vì ngộ thuốc. Con đã được đi và đã trở về bình an, nói sao cho hết niềm vui con nhận được! Con rất cảm động trong một bài giảng Cha đã nói tất cả anh chị em tín hữu là hiền thê của Cha. Mà đã là hiền thê, thì săn sóc, quan tâm, chắc chắn là đi ưu tiên một phải không cha? Con cám ơn cha nhiều lắm.
Bây giờ đến Cha Tuấn đây. Con phải nói xấu cha một chút chứ. Nói đùa một chút thôi, chứ niềm kính trọng cha trong con luôn mãi mãi. Con cám ơn Cha và Cha Tuyển vì qua lớp kinh Thánh, con được học hỏi thêm để biết về Chúa. Rồi hai cha lại hướng dẫn chúng con đi hành hương. Bạn con hỏi con đi hành hương với ai? Con trả lời với Cha Thiết, cha Thông, cha Tuyển và và... có cả cha Tuấn nữa. Bạn con chỉ nói một câu: Đã! Mà thật vậy cha Tuấn ơi, phải nói nó Đã làm sao! Có lẽ với con đó là những hồng ân mà Chúa đã cho con trong những ngày đi cùng, sinh hoạt cùng, chia sẻ cùng. Cha thấy không, chữ Cùng nó nói lên tất cả, cùng đi, cùng nhìn, cùng ăn cùng dâng thánh lễ, cùng thổn thức với Chúa. Con cám ơn những bài giảng của cha. Nhất là bài giảng Tám Mối Phúc Thật. Cha nói hơi dài. Tuy nhiên, với con thì Ok lắm, vì con như người khát nước, muốn uống mãi, nghe mãi nghe mãi cũng không chán. Con không nhàm đâu nhưng con thấy cha Thiết đổ mồ hôi vì nắng cứ chiếu vào đầu của Ngài, còn cha thì cứ thao thao bất tuyệt!
Nhớ lại hình ảnh Ba Cha đi theo canh chừng cho chúng con shopping, con thấy thương các cha quá đi thôi. Các cha ngồi lê la vỉa hè để chờ để đợi cho các mụ hiền thê mua sắm. Các cha sợ các con chiên đi lạc, sợ mất con chiên. Ôi hình ảnh tuyệt đẹp của người chăn chiên, hy sinh thời giờ, niềm vui riêng để cho các chiên bà tự do mua sắm! và không bà chiên nào bị thất lạc! Không biết các anh chị có nhận ra các cha đã quá yêu thương chúng mình không?
Thưa các anh chị em trong nhóm Emaus 45 rất thân mến. Có rất nhiều chuyến đi trong cuộc đời của riêng em. Trước mỗi lần ra đi, em luôn cầu xin Chúa để em biết phục vụ chứ không phải để anh chị em phục vụ mình và cố gắng đừng để mình trở nên gánh nặng cho người khác. Nhất là xin Chúa canh phòng miệng lưỡi, để đừng vì lời nói hoặc vô tình hay cố ý làm đau lòng kẻ khác và nhất là đừng làm ai buồn sẽ làm cho chuyến hành hương mất vui. Thế nhưng cũng không tránh khỏi. Có lẽ vì tính tình em hơi ích kỷ, muốn bắt chước Mary bỏ nhóm của mình để chạy theo cha Thiết để được nghe Cha giảng giải mà quên đi những anh chị em trong đoàn của mình đôi khi cần mình hoặc lo không biết mình ở đâu? Em xin thành thật xin lỗi các anh chị em trong nhóm số 4 của em, và tất cả các anh chị em khác nếu em có lỡ lời. Qua những ngày bên nhau, dù thời gian có ngắn ngủi nhưng em cũng đã cảm nhận được tình yêu thương khắng khít giữa anh chị em chúng mình. Chúng mình đã cho nhau nhiều lắm, đã thương yêu nhau nhiều lắm. Chính những lời chia sẻ, những nụ cười, những cảm thông, những nâng đỡ, những ủi an và ngay cả dòng nước mắt sụt sùi của hai em Tuyết và Thủy. Nhìn dòng nước mắt của hai em đã cho chị một cảm nghĩ chỉ có tình yêu Chúa mới làm cho lòng hai em mềm ra và nước mắt lăn dài cũng chỉ vì hai em đã cảm nhận được tình yêu ngọt ngào của Chúa đã cho hai em. Chị cám ơn những dòng nước mắt ấy!
Rồi những tấm gương sáng khác như chị Thu, dáng người bé nhỏ, nhưng quên mình phục vụ. Mỗi ngày chị đều thức sớm, lo sửa soạn nhiều thứ lỉnh kỉnh như trà, thịt chà bông, nước sôi, để rồi vừa bước xuống xe, chị vội chạy như bay đi mua bánh mì để chia sẻ với các anh chị em khác, rồi lo pha trà cho cha, lo đổ nước sôi vào những tô mì để ai muốn có chút thức ăn nóng và có nước cho dễ nuốt... Tới phiên chị, chị luôn luôn là người sau cùng để còn gì thì ăn nấy. Sở dĩ em muốn nói nhiều đến chị Thu vì chị Thu cùng phòng với em trong những ngày hành hương và luôn quan tâm đến em vì có lẽ chị thấy em đã có tí tuổi nên chị rất quan tâm và luôn luôn dành làm hết. Đó có phải là hồng ân không thưa các anh chị. Hồng ân của người được nhận và cũng là hồng ân cho người biết trao ra. Còn nhiều các anh chị em khác cũng đã cho em những bài học như anh Duy và các anh khác phụ nhau đẩy xe lăn cho anh Hùng. Khi lên dốc thì dìu đi, còn khiêng lên vai cái xe nặng trĩu nữa. Thế mà các anh đã vui vẻ, không một lời than!
Lạy Chúa có phải tình yêu Chúa đã làm cho chúng con ra như thế. Con cảm tạ Chúa và cám ơn tất cả các anh chị em khác đã cho con tình thương bằng những ánh mắt yêu thương, nụ cười, bằng câu chào hỏi, bằng chút bánh, chút chà bông... Tất cả những chút chút đó đã làm ấm lòng con quá đỗi. Cám ơn những ngày ta có nhau.
Sau hết, con xin dành một chút để tâm sự với nhà con. Cám ơn mình rất nhiều. Cám ơn suốt đời chỉ biết hy sinh lo cho vợ con. Cho tới bây giờ các con đã khôn lớn mình vẫn ngày ngày đưa con đi, rước con về, bất kể đêm hôm khuya khoắt. Luôn luôn hy sinh để vợ được tự do đi chơi đây chơi đó! Biết mình rất muốn đi chung nhưng vì bổn phận nên đành hy sinh ở nhà để cho vợ được đi. Cám ơn suốt đời mình đã lo cho gia đình. Hai con yêu quý của mẹ. Mẹ cũng không quên cám ơn hai con đã giúp mẹ, đã khuyến khích mẹ để có chuyến đi đầy ý nghĩa nầy. Mẹ rất hạnh phúc khi mẹ có hai con trai cưng Alphonse và Anton yêu của mẹ. Yêu con nhiều lắm.
Viphương 2009
Ghi chép của chị Phương rất khúc chiết, những chi tiết gợi cho người đọc phải suy nghĩ. . . Những cảm nghiệm thật là quý giá sau một chuyến hành hương! Thủy chắc là chị Phương đã giữ gìn những cảm nghiệm ấy như một vốn sống cho mình.
ReplyDeleteƯớc gì mọi người đều có được những cảm nghiệm như chị!
Đọc những ghi chép của chị, Thủy tưởng chừng như mình đã được tham dự chuyến hành hương về Jerusalem với mọi người. . .
Vũ Thủy
Cám ơn chị Phượng nhiều nhé! Qua bài này CT đã lần lượt như nhìn thấy lại rất rõ ràng những hình ảnh, những sinh hoạt và như đang nghe lại những tiếng nói của cha Thiết, cha Tuyển, cha Thông, cha Tuấn, của các anh chị và nhất là những câu kinh lời nguyện cùng những tiếng hát thánh ca của đoàn hành hương chúng ta năm ngoái. Những kỷ niệm thật khó quên, những cảm xúc thật bất ngờ và sâu thẳm tận đáy lòng. Riêng CT đã lãnh nhận được rất nhiều ơn Chúa trong chuyến hành hương này, tâm hồn như được đổi mới.
ReplyDeleteHồng ân Thiên Chúa bao la,
Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người.
Rất mến,
CT