Tuesday, January 25, 2011

HẠNH PHÚC TÌM LẠI - Truyện ngắn - GIOA-KIM



Hạnh Phúc Tìm Lại.

Bạn hiền thân mến,
Chiều nay, vừa bước vào nhà nguyện mình chợt thấy một người bạn cũ đang quì cầu nguyện rất sốt sắng; mình tưởng anh ta không nhìn thấy mình;  nhưng khi mình ra về, anh ấy cũng ra theo và gọi mình lại nói mấy câu cám ơn vì vừa rồi đã tham gia tập hát cho lễ cưới của con trai  anh; anh đưa cho mình cuốn sách thiêng liêng và bảo mình đọc, hay lắm.
Hôm nay mình muốn giới thiệu với bạn hiền người bạn đặc biêt này  để bạn biết thêm một người bạn tốt mà tư tưỏng và lối sống có thể là một tấm gương sáng.  Vả lại như người ta thường nói: bạn của bạn ta là bạn ta. Vậy xin mời bạn làm quen.
Gia đình mình thường gọi anh ấy là  chú Xuân vì anh ấy nhỏ hơn mình vài tuổi.  Mình và Xuân là bạn học hồi nhỏ.  Khi bắt đầu học Lớp Nhất tức là Lớp Năm bây giờ, mình bỗng thấy hai anh  em Xuân xuất hiện trong lớp mình.  Xuân có bà dì ruột dạy lớp mình, nên  hai anh em Xuân dù ở cách xa quê mình khoảng năm sáu giờ đi ca-nô nhưng hai anh em vẫn xuống trường làng mình “du học” để được bà dì chăm sóc kỹ hơn.  Cô giáo cũng thương mình nên mình có cơ hội vào nơi “nội trú” của hai anh em để vui chơi và học thêm, thỉnh thoảng cũng được ăn ké quà bánh của cô giáo. Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ rất rõ gương mặt ngây thơ với nụ cười hồn nhiên để lòi ra chiếc răng khểnh  rất dễ thương của Xuân thủa nào.  Bây giờ chiếc răng khểnh không còn nữa vì cả hai hàm răng đã đi chơi đâu rồi , thay vào đó là hàm răng giả đều đặn, và nụ cười tươi tắn ngày nào cũng  đã nhuốm màu  thời gian. Có lẽ đó là hậu qủa của  những ngày dài trong trại cải tạo  của Cọng Sản đầy gian nan khốn khổ…Ngoài việc mất hàm răng , Xuân còn  mắc chứng lãng tai nên được người chung quanh tặng cho biệt danh là Xuân điếc để phân biệt với mấy anh khác có cùng tên trong cộng đoàn như Xuân  mập, Xuân chủ tịch, Xuân tóc vàng v.v…Anh bạn Xuân điếc của mình là một người rất đạo đức, măc dù cuộc sống có những khốn khó đến với anh, anh vẫn vui vẻ chấp nhận và có một niềm tin vững vàng vào Thiên Chúa.  Anh sống ẩn dật vì không nghe được rõ ràng những gì người khác nói; nhưng anh không bi quan; trái lại anh bằng lòng với sự điếc lác của mình và cho đó là một sự may mắn; bởi vì anh không nghe được những gì người đời xào xáo với nhau nên tâm hồn anh rất thanh thản.  Anh nói nhờ sự điếc lác mà anh tìm được sự bình an trong tâm hồn và anh có được sự tĩnh lặng để hướng lòng về Chúa.  Thay vì chuyện trò với người đời thì anh nói chuyện với Chúa.  Điều đó làm anh thấy hạnh phúc. Mình gặp anh nhiều lần chầu thánh thể trong nhà nguyện; anh đọc sách thiêng liêng nhiều nên mỗi khi gặp mình thì anh đem những tư tưởng tốt lành đã đọc được để chia sẻ với mình; anh nói một cách say sưa gần như độc thoại và nếu mình có nói thì anh phải hỏi lại hoặc chụm bàn tay lên  vành tai để nghe cho rõ hơn. 
 Nhìn thấy anh với vẻ mặt hạnh phúc mặc dù bệnh hoạn, mình cũng có một vài suy nghĩ: Thật đúng như người ta nói, hạnh phúc là do chủ quan; hạnh phúc là biết bằng lòng  với những gì mình đang có, dù cái đang có là đau khổ. Người đời thường xa lánh sự đau khổ, nhưng các thánh thì chấp nhận sự đau khổ để làm lễ vật dâng  lên Thiên Chúa hầu cứu mình và cứu đời.  Thánh Têrêxa Nhỏ trên giường bệnh đã nói: "Con đã đạt đến mức mà không thể nào chịu đau khổ được nữa, bởi vì đau khổ đã trở nên quá ngọt ngào đối với con." Thật vậy, đau khổ mà mình chấp nhận và thậm chí còn muốn nhận thì đau khổ sẽ vơi đi hoặc hoặc không còn là đau khổ nữa.  Thấy anh bạn điếc lác của tôi vui vẻ với bệnh hoạn của mình, tôi nhớ đến một người điếc khác rất lừng danh .  Người điếc này là một nhạc sĩ vĩ đại nhất của thế giới âm nhạc. Đó là Ludwig van Beethoven.
Nhạc sĩ Enrique Baldovino kể lại câu chuyện sau đây về nhà soạn  nhạc thiên tài này:
Ludwig van Beethoven sinh năm 1770 tại thành phố Bonn nước Đức và qua đời tại thành phố Vienne nước Áo năm 1827. Khi còn nhỏ, ông  thiếu thốn tình thương của gia đình. Cha  ông là  một người nghiện ngập, luôn say rượu và hay đánh đập ông một cách tàn nhẫn.  Mẹ ông mất sớm.  Khi người ân nhân và cũng là người cha thứ hai của ông là hoàng tử nước Đức từ trần thì ông rất đau khổ, phiền muộn và sa sút tinh thần.  Những triệu chứng của bệnh điếc bắt đầu gây phiền toái cho ông và làm ông cáu kỉnh buồn bực.  Ông phải mang theo cuốn sổ để viết ra những câu đàm thoại cho người khác biết ông muốn nói gì và ngược lại.  Thấy rằng không ai thông cảm và muốn giúp ông nên Beethoven xa lánh mọi người và sống cô độc.  Ông bị người đời cho là một kẻ yếm thế; vì vậy ông càng sa sút tinh thần hơn.  Ông soạn chúc thư nói rằng có lẽ ông phải tự tử.  Nhưng may mắn cho ông vì Thiên Chúa quan phòng đã cho ông gặp được một thiếu phụ cùng trọ chung một nhà mà ông vừa dọn đến. Một đêm nọ cô ấy nói như hét vào tai ông cho ông nghe: “Tôi ước ao đổi hết mọi sự để được một lần nhìn  thấy ánh trăng.” Nghe nàng nói Beethoven xúc động đến rơi nước mắt. Ừ nhỉ; Beethoven tự nhủ: Ít ra ta cũng còn được nhìn thấy, còn được soạn nhạc và viết ra trên trang giấy.  Lòng ham sống trở lại mãnh liệt với ông và đưa ông ta đến việc sáng tác một trong những tác phẩm hay nhất của mọi thời đại, đó là bản nhạc “Sonata Ánh Trăng” (Moonlight Sonata).  Những năm tháng sau khi khắc phục được sự muộn phiền cũng giúp ông sáng tác nên bài “Ca Tụng Niềm Vui” (Ode to Joy) trong giao hưởng số 9 là đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác nghệ thuật phi thường của Beethoven.  Ông đích thân điều khiển buổi trình diễn đầu tiên năm 1824 và ngay sau đó bị điếc hoàn toàn nên không nghe thấy tiếng vỗ tay của cử tọa.  Một trong những người hát solo đã nhẹ nhàng xoay  người ông lại để nhìn thấy một hội trường đầy khán thính giả đang nồng nhiệt vỗ tay hoan hô.  Người ta cho rằng bài “Ca Tụng Niềm Vui” biểu lộ lòng biết ơn của ông đối với Thiên Chúa và cuộc đời vì đã giúp ông khỏi phải tự tử.  Ông cám ơn người thiếu phụ đã gợi ý cho ông dệt nên bài “Sonata Ánh Trăng” với một giai điệu tuyệt vời.  Beethoven, một nhạc sĩ điếc lác mô tả một đêm trăng bằng âm nhạc cho một người con gái mù lòa thưởng thức; và bản nhạc ấy đã trở thành bất hủ! Beethoven đã tìm lại được hạnh phúc tưởng chừng đã mất vì bệnh hoạn. Câu nói của người con gái đã làm cho ông thấy rằng ông còn có phúc hơn một số người khác. Đây là môt thái độ sống giúp cho con người biết bằng lòng với số phận và hoàn cảnh của mình..  Beethoven đã nhờ câu nói của người con gái mà biết nhìn xuống những người còn có những nỗi khổ hơn mình và thấy rằng mình còn có phúc. Đây chỉ là một thứ triết lý bình dân và phổ thông, nhưng ai biết để tâm suy gẫm mới thấy được giá trị của nó.  Mình nhớ lại hồi còn nhỏ, bản thân mình cũng có khi buồn phiền vì thấy thua chúng kém bạn mặt này mặt nọ.  Thấy vậy, một hôm mẹ mình bảo: “Con đừng nhìn lên mà nên biết nhìn xuống để thấy con còn có phúc hơn nhiều người thì con sẽ không thấy buồn phiền nữa.” Nghe mẹ nói, mình làm theo và từ đó không còn so bì nữa.  Câu nói của mẹ đã gây cho mình một ấn tượng sâu sắc trong suốt cả cuộc đời.  Mỗi khi nhớ đến mẹ, mình lại nhớ đến câu nói ấy. Mình nhận thấy rằng con người sở dĩ khổ sở vì không bằng lòng với số phận và khi gặp hoàn cảnh đau thuơng thì thường than trời trách đất và cho rằng mình không đáng phải chịu cảnh ngộ ấy.  Một lần kia mình chia sẻ ý nghĩ đó với một người khác.  Anh ta bảo rằng: “Nhìn xuống à?  Nếu tôi không còn thấy ai khổ hơn để nhìn xuống thì sao?”  Mình ngẫm nghĩ rồi bảo anh ta: “ Nếu bạn thấy không còn ai để nhìn xuống thì hãy nhìn vào Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu chấp nhận thân phận của môt con người khốn khổ, sinh ra khó hèn nơi hang bò lừa hôi hám, chiụ thương khó và chết đau đớn nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, còn ta là phàm hèn tội lỗi . Chúa có đáng chịu lầm than khốn khổ vậy không? Hoàn toàn không! Vậy sự đau khổ của ta so với sự thống khổ của Chúa và thân phận ta so với Đấng Toàn Năng thì nào có đáng gì.  Người trộm lành trong giờ phút cùng khốn, chịu đóng đinh trên thập giá cùng với Chúa Giêsu, đã biết nhìn vào Chúa Giêsu và đã tìm được hạnh phúc đời đời . Câu nói và thái độ của ông ta thật đáng cho ta suy gẫm:
-         Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta". (Lc 23, 35-43).
Nhận thức được điều này ta sẽ không còn thấy là ta không đáng phải chịu đau khổ nữa mà sẵn lòng chấp nhận hoàn cảnh của mình. Lúc mình biết bằng lòng là đã bước gần đến hạnh phúc rồi đó. Giống như trường hợp hai đứa trẻ cùng ở trong một lớp học, một đứa thì lười biếng không muốn học hành, nó thấy việc học hành là cực hình, còn đứa bằng lòng chấp nhận đi học thì vui vẻ hón hở, hạnh phúc vì được học hành. Vậy cùng một sự việc, cùng một hoàn cảnh mà người này thấy đau khổ người khác thì thấy sung sướng, hạnh phúc, tùy theo quan niệm sống của người ấy.
Hôm nay xin chia sẻ với bạn một vài suy nghĩ sau khi gặp lại một người bạn qúi.  Hy vọng những chia sẻ này sẽ làm bạn vui.  Chúc bạn một ngày thật đẹp.  Hẹn thư sau.
  Thân mến,
  Gioa-Kim

2 comments:

  1. Anh Gioa-Kim mến,

    Cám ơn anh thật nhiều. Câu chuyện rất ý nghĩa. Thật rất đúng là hãy bằng lòng với cuộc đời mình. Để có hạnh phúc, hãy học biết nhìn xuống, nhất là hãy nhìn xuống bậc thang cuối cùng là Chúa Giê-Su, Người đã hạ mình xuống bậc sau rốt để nâng chúng ta lên hàng thứ nhất.

    Rất mến,
    CT

    ReplyDelete
  2. Vũ Thủy thường kể cho người đang chia sẻ với mình về toàn những chuyện buồn bã một câu chuyện như sau: :
    Một bà góa kia có hai con trai, một anh làm nghề bán áo mưa còn một anh làm nghề bán quạt. Người hàng xóm của bà góa thấy bà lúc nào cũng buồn bã mới hỏi "Làm sao tôi thấy chị ngày nào cũng buồn bã vậy?". Bà góa đáp: "ngày mưa, tôi buồn vì đứa con bán quạt ế ẩm. Ngày nắng, tôi buồn vì đứa con bán áo mưa lại càng ế hơn!" Bà hàng xóm bảo: "Thế sao ngày mưa chị không vui cho đứa con bán áo mưa, còn ngày nắng chị vui cho đứa con bán quạt có phải hơn không?"
    Nhiều người hiểu và áp dụng câu chuyện này hay lắm anh ạ!
    Trong truyện ngắn của anh cũng chứa đựng một triết lý sống như vậy, đây là một câu chuyện có tính cách giáo dục rất tốt cho những ai đang gặp bất hạnh.

    ReplyDelete