Wednesday, July 24, 2013

Bài Ca Nào Cho Em.


Bài Ca Nào Cho Em

Sao em lại hát bài ca máu lửa
Khơi hận thù một thủa trên quê hương.
Sao ngân nga hoài câu hát thê lương,
Khóc thân phận bi thương nơi trần thế.
Em khóc gì khi chiều tà bóng xế;
Khi thu về lặng lẽ cánh hoa rơi;
Khi đông tới gió mưa lấm khung trời;
Tình bay xa và một thời tiếc nuối.
Sao em không hát bài ca khen ngợi
Chúa muôn loài tạo dựng cõi trần gian,
Bao kỳ công, bao ơn phúc tuôn tràn
Và Tình Ngài trao ban cho người thế.
Sao không hát bài ca chúc tụng Mẹ
Là mùa xuân vạn tuế của trần gian,
Là cửa ngõ Ơn Cứu Độ tuôn tràn,
Là Hiền Mẫu của muôn dân dưới thế.
Em hát gì những bài ca rầu rĩ
Cho tâm hồn bi lụy chẳng ích chi.
Cõi đời này mọi sự sẽ qua đi.
Hãy hát lên thánh thi ca ngợi Chúa,
Vì tình Ngài yêu ta từ muôn thủa
Và tình ca thánh thiện của thiên đàng
Cho vơi đi sầu muộn của trần gian
Để tâm hồn bình an và hoan lạc.
 
Gioa-Kim


Monday, July 15, 2013

Cảnh đời phù vân.



CÕI ĐỜI PHÙ VÂN


Ngày xưa có một vị vua
Giàu lòng nhân ái chẳng thua thánh hiền,
Không ham chức tước uy quyền,
Chẳng màng giàu có bạc tiền thế gian,
Chỉ tìm kiếm sự khôn ngoan
Đưa đường chỉ lối lo toan việc lành.
Vua bèn xuống chiếu thi hành,
Kêu mời nhân sĩ kinh thành đến ngay.
Đền rồng họp mặt suốt ngày,
Tìm cho được một ý hay răn đời,
Phương châm cho hết mọi người,
Lúc nào cũng đúng mọi nơi chẳng trừ.
Sau khi thỉnh ý tôn sư,
Mọi người đồng ý dâng thư bệ rồng.
Thư rằng trong cõi bụi hồng,
Mọi điều là thứ vô thường qua đi.
Không gì tồn tại mọi khi;
chẳng gì trường cửu, không chi lâu bền.
Vua rằng ý thật đáng khen;
Đó là chân lý ta nên nhớ đời.
Hãy tìm vĩnh phúc trên trời;
Đừng ham danh lợi cõi đời phù vân.


Gioa-Kim

Sunday, July 14, 2013

St.Teresa Of The Andes

Tranh cua HBTT
St. Teresa of The Andes
 Feastday ngay 13 thang 7
 

 THÁNH TÊRÊSA de LOS ANDES
(1900-1920)

Từ khi được sinh ra (1900) cho đến khi được rước lễ lần đầu tiên (1910)

Thánh Teresa de Los Andes được sinh ra ở Santiagio, ChiLe vào ngày 13 tháng 7 năm 1900. Là người con thứ năm của ông bà don Miguel Fernández Jaraquemada và doña Lucía Solar Armstrong, Thánh có tên là Juanita lúc được rửa tội.
Gia đình của Juanita thuộc loại giàu có. Ông nội cô là người Tây Ban Nha. Ông ngoại cô, don Eulogio, sở hữu một cơ ngơi rất rộng lớn ở Chacabuco, khoảng 40 dặm về phía bắc Santiago, nơi mà ông ấy thường xuyên tụ họp gia đình lại.
Vào những dịp nghỉ, Juanita thường đi đến Chacabuco vì cô rất yêu thích nơi này. Cô đã học cưỡi ngựa rất sớm. Như là một nữ kỵ sĩ thứ thiệt, cô có thể cưỡi ngựa từ khu nhà ở đến khởi điểm tại Andes.
Anh chị em của Juanita là: Lucita, Miguel, Luis (Lucho), Juana (qua đời vài giờ sau khi được sinh ra và tên được  lấy để đặt cho Juanita), Rebeca va Ignacio. Juanita đặc biệt gần gũi với anh trai Lucho và em gái mà cô không thể rời xa là Rebeca.
Rất sớm, Juanita cảm thấy thu hút về với Thiên Chúa. Cô thích đi nhà thờ với Ofelia (cô hầu gái thường chăm sóc cô). Một ngày, đang khi ở Chacabuco, cô nắm tay một người bạn linh mục của gia đình và nói với ông: “Thưa cha, chúng ta hãy đi đến thiên đàng”.Khi họ ra khỏi nhà, vị linh mục hỏi cô: “Bây giờ, Juanita, đâu là con đường dẫn đến thiên đàng?”. Juanita đã trả lời: “Bằng cách này”, cô chỉ tay về  hướng cordillera Andes. Vị Linh mục bảo cô: “Sau khi leo lên nhưng ngọn núi cao, trời vẫn còn xa, rất xa. Không, Juanita, điều này không phải là con đường dẫn đến thiên đàng. Chúa Giêsu trong nhà tạm là con đường hoàng tộc để đi đến đó.”
Lúc bấy giờ, Juanita không dễ chịu chút nào. Cô tư phụ, không thích vâng lời, dễ dàng trở nên tức giận (anh em cô rất thích chọc cô tức giận) và khóc không đâu. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, đặc biệt là qua Bí tích Thánh Thể, Juanita từng bước học khắc phục các khiếm khuyết của mình và kiểm soát bản thân.
Năm 1906, một trận động đất làm rung chuyển thành phố Santiago. Trong nhật ký của mình, Juanita đã viết rằng tại thời điểm này Chúa Giêsu bắt đầu chiếm hữu trái tim cô.
Ông ngoại của Juanita qua đời một cách thánh thiện vào năm 1907. Mẹ của Juanita, Doña Lucia, được thừa hưởng một phần của bất động sản Chacabuco được giao cho cha cô là Don Miguel quản lý. Cùng năm đó, Juanita vào trường học Sacred Heart ở Santiago, một trường học được điều hành bởi các nữ tu dòng Thánh Tâm Thánh Madeleine-Sophie Barat.
Anh trai Lucho đã dạy cho Juanita cách đọc kinh Mân Côi. Cả hai đều hứa đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, một lời hứa mà Juanita giữ cho đến khi cô qua đời (cô viết là chỉ một lần là cô quên đọc lúc còn nhỏ). “Từ thời gian đó trở đi, có thể nói rằng Chúa của chúng ta đã nắm tay tôi với Đức Trinh Nữ rất Thánh.”
Nhanh chóng, Juanita cảm thấy một khát vọng lớn lao được rước lễ lần đầu. Cô thường hỏi khi nào cô có thể làm điều đó nhưng được cho biết rằng cô còn quá trẻ. Sau đó, cô yêu cầu được dạy để được rước lễ như mong muốn.  Sau khi nài xin nhiều lần, Juanita được phép rước lễ lần đầu. Cô muốn chuẩn bị cho mình thông qua việc xưng tội và cầu nguyện, dâng lên Chúa Giêsu nhiều hy sinh nhỏ bé. “Tôi chuẩn bị cho bản thân mình trong một năm. Trong thời gian đó, Đức Trinh Nữ đã giúp tôi thanh lọc trái tim tôi từ tất cả những sự không hoàn hảo.” Cô đã rước lễ lần đầu vào ngày 11 tháng 9 năm 1910 tại Santiago. Trong nhật ký của mình, cô đã viết về sự kiện này đã gây ấn tượng cho cô trong suốt cuộc đời. Cô sẽ cố gắng càng nhiều càng tốt để được rước lễ mỗi ngày.


St Teresa Andes

Từ khi được rước lễ đầu tiên cho đến khi gia nhập dòng CátMinh (1919)

Năm 1914, lần đầu tiên Juanita đọc câu chuyện của một linh hồn của Thánh Têrêsa thành Lisieux (chưa được phong Chân phước). Trong nhiều năm, gần đến ngày 8 tháng 12, Juanita bị bệnh nặng. Năm 1914, cô có một cuộc phẫu thuật ruột thừa, một điều tế nhị và nguy hiễm tại thời điểm đó, hơn nữa vì Juanita không có một sức khỏe mạnh mẽ. Sau đó, cô nghe tiếng Chúa Kitô mời gọi cô hãy hiến dâng hoàn toàn cho Chúa để trở thành nữ tu dòng CátMinh. Trong năm 1915, cô trở thành học sinh nội trú với em gái Rebeca tại trường Trung học Thánh tâm. Cô rất đau khổ khi phải rời ngôi nhà gia đình vì cô rất yêu mến gia đình mình. Tuy nhiên, cô nhận thức rằng Chúa đang chuẩn bị cho cô về một cuộc chia ly lớn lao sau này khi cô gia nhập dòng CátMinh. Thật vậy, cô đánh giá cao ngôi trường đã giúp cô sống một cuộc sống Kitô hữu nhiệt thành.
Cô bắt đầu viết nhật ký, nuôi dưỡng và củng cố đời sống tinh thần của mình qua lời cầu nguyện im lặng, đi lễ hàng ngày và qua sự hy sinh. Mặc dù không phải là học sinh đặc biệt, nhưng cô dốc tâm vào việc học, ngay cả những môn học mà cô không yêu thích (chẳng hạn môn Vật lý và Hóa học) để làm vui lòng Chúa Giêsu và cha mẹ. Cô cũng rất thích giúp những học sinh nghèo hoặc kém năng khiếu. Rât sớm, Juanita biểu lộ một tình yêu tuyệt vời dành cho người nghèo và giúp họ càng nhiều khi cô có thể. Cùng trong năm đó (1915), cô gặp trên đường phố một đứa trẻ rách rưới đói khát và run lẩy bẩy vì lạnh. Cô đem đứa trẻ về nhà mình, cho đứa trẻ ăn uống và hỏi nơi sinh sống của nó. Cô phát hiện rằng đứa trẻ đang sống trong một khu ổ chuột ở ngoại ô Santiago. Cô đã đến thăm gia đình đứa trẻ và cho đến khi cô gia nhập dòng CátMinh vào năm 1919 cô đã chăm sóc đứa trẻ, gọi nó là Juanito, cho nó ăn trong gia đình cô và cho nó quấn áo của các anh trai cô. Cô đã tổ chức một cuộc xổ số mà giải thưởng là chiếc đồng hồ của mình để kiếm tiền mua giày cho Juanito. Cô chăm lo đến việc giáo dục về nhân bản và công giáo cho đứa trẻ. Vào tháng 12 năm 1915, Juanita tự tuyên khấn lời thề về đức khiết tịnh, hứa là không có bất cứ ngưới phối ngẫu nào khác hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô. Cô đã lập lại lời tuyên khấn này nhiều lần.
Juanita trải qua kỳ nghỉ của minh tại Chacabuco nơi cô thật sự làm công việc tông đồ giữa các gia đình nông dân, dạy giáo lý cho trẻ em, chơi với chúng, , tổ chức dàn hợp xướng, dâng hiến nhà cho Thánh Tâm. Cô có năng khiếu truyền cho trẻ em về chân lý đức tin. Do sự quản lý kém từ cha của Juanita mà cơ ngơi Chacabuco bị bán vào năm 1917 và gia đình Juanita phải thích nghi với cách sống giản đơn hơn. Trong khi gia đình cô thương tiếc về sự mất mát của Chacabuco thì Juanita thấy trong sự kiện đau buồn này một ơn gọi quan phòng để có thể tự tách mình ra khỏi vật chất trần gian. Vào ngày 15 tháng 6 năm 1917, Juanita trở thành con cái của Đức Maria và trọn đời ràng buộc mạnh mẽ về tinh thần với Đức Maria mà cô tín thác mọi việc. Cô đọc những tác phẩm tinh thần của nữ tu Elizabeth Chúa Ba Ngôi (nữ tu dòng CátMinh người Pháp qua đời năm 1906 tại Dijon và sẽ được phong Chân phước vào năm 1984) mà cô khám phá ra mối quan hệ tâm linh vĩ đại. Cô cố gắng sống càng nhiều càng tốt trong sự hiện diện của Thiên Chúa mà cô hằng yêu mến ngày càng nhiều hơn. Cô nói với anh trai Lucho: "Anh muốn gì, Lucho, Chúa Kitô, Đấng khát khao tình yêu, làm em điên rồ”. Tháng chín năm 1917, cô viếng thăm lần đầu tiên dòng CátMinh ở Los Andes, xác tín nội tâm đây là nơi Thiên Chúa đang gọi cô.

Tháng tám năm 1918, Juanita rời trường Thánh Tâm để thay thế trong ngôi nhà gia đình chị gái Lucia vừa mới kết hôn. Cô tận tâm với công việc và chấp nhận mọi hy sinh vì hạnh phúc của gia đình cô: “Tôi không tin rằng cuộc sống gia đình là cuộc sống của những hy sinh. Điều này đã giúp tôi chuẩn bị cho bản thân mình một cuộc sống tôn giáo”. Anh trai Lucho sẽ nói rằng cô là”viên ngọc của gia đình”. Juanita viết trong nhật ký của cô: "Tôi phải phấn đấu để tìm kiếm hạnh phục của tất cả. Quyết tâm của tôi là hy sinh bản thân mình cho tất cả”.
Trong khi có đời sống tinh thần mãnh liệt, Juanita sống như một cô gái trẻ vào thời đại của cô. Cô thích ở với gia đình và bạn bè của cô. Cô rất thích thể thao, đặc biệt là bơi lội (cô xuất sắc về môn này) và quần vợt mà cô phát hiện ra với sự nhiệt tình. Cô thích vẻ đẹp của biển và núi. Con người và siêu nhiên tạo dựng trong cô một sự tổng hợp ngày càng hài hòa: cô chiêm niệm rất sâu sắc về màu nhiệm Thiên Chúa trong lời cầu nguyện im lặng, trong khi cô vẫn tự nhiên, tử tế và vui vẻ với bạn bè cô. Mặc dù cô phải thường xuyên chịu đựng vì sức khỏe yếu kém của mình và vì những thanh lọc tinh thần trong trái tim cô đến từ ân sủng của Thiên Chúa, Juanita vẫn vui vẻ và thích đùa.
Tháng 1 năm 1919, cô viếng thăm lần đầu tiên dòng CátMinh ở Los Andes. Ở đó, cô nhận ra nhận đó là nơi mà Thiên Chúa đang gọi cô.
Ngày 25 tháng 3 năm 1019, cô viết một lá thư tuyệt vời gửi cha cô để xin phép gia nhập dòng CátMinh, nói với cha cô rằng từ thời thơ ấu cô đã tìm kiếm hạnh phúc nhưng hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mói có thể làm cô hoàn toàn hạnh phúc mãi mãi. Cô mong ước hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa trong một cuộc sống dành riêng cho cầu nguyện và đền tội. Cha cô xúc động sâu sắc, tràn đầy nước mắt, bằng lòng cho cô gia nhập dòng. Sau đó, cùng thời điểm đó, Juanita cảm thấy trong trái tim cô niềm vui lẫn niềm đau khổ lớn nhất: vui bởi vì cô sẽ dâng hiến hoàn toàn đời mình cho Chúa Kitô, người đã thu hút cô rât nhiều, đau khổ vì cô sẽ phải rời mái ấm gia đình mà cô rất yêu thương và sẽ phải chịu đựng rất nhiều từ sự chia ly này.
Ngày 7 tháng 5 năm 1919, cô gia nhập dòng CátMinh ở Los Andes và lấy tên là Teresa de Jesus.

11 tháng trong dòng Cát Minh ở Los Andes (1919 – 1920)

Gia nhập dòng CátMinh vào ngày 7 tháng 5 năm 1919, Teresa bắt đầu bước đầu tiên của cuộc sống tu trì. Cô tận hưởng trong trái tim cô một niềm vui sâu sắc được hiến dâng hoàn toàn bản thân mình cho Thiên Chúa, từ bỏ những gì thân yêu nhất của mình (gia đình cô) để theo Chúa Kitô. Ngay từ đầu, cô phấn đấu để thực hiện các quy tắc của dòng CátMinh với sự hoàn hảo, trung thực và yêu thương, chu toàn những công việc khiêm tốn và khó chịu nhất. Cô nghĩ rằng cuộc sống dòng Cát Minh bao gồm ba điều: tình yêu, sự đau khổ và cầu nguyện cho sự hối cải của những tội nhân, sự thánh hoá các linh mục và Giáo hội.
Với sự cho phép của nữ viện trưởng - người hiểu rằng nữ tập sinh mới là một linh hồn đặc biệt, Teresa có một hoạt động biên thư mãnh liệt. Những bức thư của cô viết toát lên tình yêu Chúa Kitô và niềm vui hoàn toàn thuộc về Ngài. Cảm động bởi chứng nhân như cô, một số bạn bè của cô sẽ gia nhập vào cuộc sống tôn giáo.
Ngày 8 tháng 9 năm 1919, Teresa được chấp nhận vào nhà tập và tiếp nhận áo dòng. Cô nhận được áo dòng ngày 14 tháng 10 năm 1919, trước sự hiện diện của gia đình cô và nhiều bạn bè. Tất cả những người chứng kiến bị ấn tượng bởi niềm vui tỏa ra từ cô.
Trong tu viện, Teresa nhận được nhiều ân sủng hiệp thông với Thiên Chúa, mặc dầu cô không tránh khỏi những thử thách về tinh thần, đặc biệt là những cám dỗ và sự khô héo về tinh thần. Cô có một mối quan hệ đặc biệt với nữ viện trưởng, nhưng phụ tá của Ngài là người phụ trách về nhà tập làm cô đau khổ nhiều bởi liên tục sửa sai cô.
Những ngày đầu tiên của tháng 3 năm 1920, Teresa nói với cha giải tội rằng cô chỉ có một tháng để sống trên đời. Cô xin phép cha cho cô làm những việc đền tội bất thường. Cha giải tội không thể tin cô được (làm sao cô có thể biết được thời gian cô qua đời?) và bảo cô hãy bẳng lòng với việc tuân thủ quy tắc dòng CátMinh một cách hoàn hảo.
Teresa bị một căn bệnh hành hạ mà cô biết sẽ dẫn cô đến sự chết. Tuy nhiên, cô thực hành tất cả các bài tập tinh thần của Mùa chay năm đó, bao gồm cả việc ăn chay nghiêm ngặt.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, 2 tháng tư năm 1920, Teresa bắt đầu con đường của thập giá theo Chúa Kitô. Cô dành nhiều giờ cầu nguyện ở chỗ đội đồng ca. Các chị em nhận thấy rằng cô bị sốt cao và khuyên cô hảy đi ngủ.

Vài bác sĩ khám bệnh cho cô mà không nghĩ đến việc làm hạ cơn sốt đang giày vò cô. Chẩn đoán của các bác sĩ là cô bị bệnh sốt phát ban cấp cao.
Ngày 7 tháng 4, Teresa có được niềm vui khi đọc những lời tuyên khấn dòng của cô. Theo phong tục, một tập sinh khi gặp nguy hiểm cận kề cái chết có thể đọc lời tuyên khấn của mình (tuy nhiên, nếu tập sinh này bình phục, cô phải trở về nhà tập sự).
Sau những đau đớn về thể xác và tinh thần lớn lao, Teresa phó thác linh hồn cô cho Thiên Chúa và qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1920, lúc 7:15 tối. “Đối với một nữ tu dòng CátMinh, sự chết không là gì. Cô ấy sẽ đi vào sự sống đời đời, để rơi vào vòng tay của một Đấng mà cô yêu thương trên hết mọi sự trên đời, để được mãi mãi đắm chìm trong tình yêu thiêng liêng.”
Đám tang của cô được tổ chức vào ngày 14 tháng 4. Các chị em nữ tu và gia đình cô ngạc nhiên khi thấy nhà nguyện của dòng tràn đầy dòng người đến để tôn kính vị thánh nhỏ vừa mới qua đời mặc dù họ không được biết đến Teresa, như họ nói. Vì vậy, hương thơm thánh thiện và danh tiếng của Teresa có được trong lúc này sẽ được lan tỏa nhanh trong những năm tiếp theo. Các nữ tu dòng CátMinh nhanh chóng nhận được những chứng tích đến từ những người đã nhận được ân sủng qua lời cầu bầu của Thánh Teresa de Los Andes.
Ngày 23 tháng 11 năm 1920, cô em gái của Teresa là Rebeca, gia nhập dòng CátMinh ở Los Andes, tin rằng Thiên Chúa đang kêu gọi cô để thay thề chị gái cô trong nhà dòng. Cô sẽ dũng cảm theo bước chân của Teresa cho đến khi cô qua đời thánh thiện vào năm 1942.
St Teresa AndesCăn phòng của chị Therese de Los Andes ở dòng Kín Catminh bên Chile
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
St Teresa AndesNhà Thờ dâng kính cho Thánh Têrêsa de Los Andes ở Chile, nơi đây có lưu giữ mộ của Thánh Nữ
 
 
 
 
 
St Teresa AndesNgôi Mộ của Thánh nữ Therese de Los Andes
 
 
 
 
 
 
 
 
 
St Teresa AndesXác Thánh Therese de Los Andes được quàn tại dòng Kín bên Chile
 
 
 
 

                                   
                     
 

Thursday, July 11, 2013

Bong Bat Tu


 Bong Bat Tu-HBTT  (ở nơi đâu có dáng hoa hiện diện, hoa làm nổi bật niềm vui và hạnh phúc cho người xung quanh. ).  Wherever the flowers presence, it creates happiness and joy to the surrounding people.


Wednesday, July 10, 2013

Mười Thương Ngày Nay.

Mười Thương Ngày Nay.
Thơ: Nguyễn P. Thủy.
Nhạc: Trung Việt.
Slideshow: Duy Hân.

Sunday, July 7, 2013

TÔI TRONG MẮT NGƯỜI



Tôi chỉ là hạt bụi
Trong vũ trụ mênh mông
Tôi từ không nên có
Ôi, ngọn gió huyền siêu
Đã dìu tôi vào đời.

Lời ai như khúc nhạc
Len vào giữa tim tôi
Cho bừng say lửa mới
Cho thế giới của tôi
Chẳng còn đơn côi nữa!

Này, tôi trong vũ trụ
Một thụ tạo hữu tình
Một sinh linh nhỏ bé
Vẫn được quý, được yêu
Bởi tình yêu thượng đế!

Kìa thế giới xinh tươi
Có biết bao hạt bụi
Có cả triệu vì sao
Tôi thấy mình lấp lánh
Trong ánh mắt của Người. 

Friday, July 5, 2013

PHÚ THÁNH INÊ ĐÊ

THÁNH I NÊ ĐÊ (LÊ THỊ THÀNH)
(Kính ngày 12-07(

I Nê Thánh hiệu;
Danh Lê thị Thành.
Giáo hữu can tràng;
Nữ nhân oai lẫm.

Thư truyền :
Cảnh Hưng tứ thập nhị niên, nơi quê quán  Bái Điền , ấu nữ chào đời trong yêu thương yên ấm;(*)
Thiệu Trị tiên khởi nguyên kỷ, chốn lao tù Nam Định,  Chứng nhân  tử đạo    bởi tra khảo nhục hình .(*)
Tự ấu thơ với đích mẫu , quê ngoại  Ninh Bình;
Lên  đôi tám cùng tòng phu, đồng hương  Phúc Nhạc.
Dưỡng nuôi con , quản chi lao nhọc;
Dạy dỗ trẻ , hết mực vẹn toàn.
Chỉ bày con  học đạo lý  sống ngoan;
Thúc giục cháu năng đường ngay  rèn đức.
Răn con cái thuận hòa hạnh phúc;
Khuyên rể dâu hiếu đễ  yêu thương.
Lòng bác ái , lại  tỏ độ vô  lường;
Tâm kính tin , hằng khát khao khôn kể.
Đã nhiều phen giúp  Cha  Cố ẩn tàng, gian nguy chẳng nệ ;
Từng lắm bận che Thừa sai lẩn tránh , vạ họa  không   sờn .

Phục sinh năm Tân Sửu(1841(:
Một kẻ giáo gian lén báo tâng công;
Bốn Cha  giảng đạo đang hành sứ vụ.
Quan Tổng đốc  thân chinh  kéo đàn quân dữ;
Lính sai nha vây bủa ngăn ngả làng thôn.
Cố đạo bị truy đuổi dồn;
Tín đồ cố che chắn dấu .
Linh mục Lý ẩn vùi mương giậu;
Giáo dân Đê  phủ lấp rạ rơm.
Nguy nàn thay, lính dịch nhanh chân;
Tai họa lắm, Cha con sa lưới.
Nhà cửa bà truy trên lùng dưới;
Tay chân lính  cướp thóc đoạt tiền.
Bị điệu sân đình mặt vẫn điềm nhiên;
Chịu lôi dọc ngõ chân luôn vững cất.
Xích khóa tay , lính  điều ngục thất ;
Gông cùm cổ , quan giải tù nhân.
Dài lộ ải , toàn đi đảo bước lăn;
Suốt canh thâu, những nhào xiêu ngã ngửa.
Trước án quan  , gạt hết  lời khuyên bỏ Chúa;
Trong khổ ngục  , xưng vang  tiếng thệ tin Ngài.
Đòn vọt hung tàn tới tấp ra oai;
Củi cây ác độc dập dồn tra tấn.
Quan thượng lại đòi tới khảo lui , dụ quá khóa năm lần bảy bận;
Nữ nhân vẫn đáp ngay xưng rõ  , quyết kiên trung nhất dạ một lòng.
Trọn kiếp tín trung;
Suốt đời mộ kính.
Quan lệnh sai , cột y phục  phạm nhân thật kín;
Rắn truyền thả , luồn châu thân  nữ lão ghê hung.
Chẳng chút hoảng run;
Mà đầy an vững.
Loài độc thú cũng dè kiêng  , không hề cắn vụng;
Người can trường hằng trông cậy , vẫn mực đứng ngay .
Quan tức giận thay;
Lính kinh hãi lắm.
Khổ hình lại như mưa đẫm;
Thân thể  hồ tựa  bã băm.
Máu me bê bết áo quần;
Lời nguyện lỉ liên môi miệng.
Xin Chúa Thiên ban thêm sức mạnh;
Cầu Đức Mẹ  hộ giúp  lòng gan.
Con gáig khóc thương sầu não vào thăm ;
Mẫu thân  vui  vẻ lạc quan an vấn.
Áo mẹ nở đơm hoa hồng phúc đấy;
Lệ con   rơi tạo giếng lụy mà chi.
Trăm lần đòn vọt , sống lại chết đi
Mấy lượt cùm gông , tra suy khảo  kiệt.
Lại thêm bệnh kiết;
Càng khiến sức tàn  .
Vị Nữ liệt nguyện tiếng phó dâng;
Người Tôi trung  trút hơi giã thế.
Thân xác hóa nên của lễ;
Linh hồn  thăng tiến Cõi Thiêng.
Gieo đau khổ, vị giáo dân trung tín  hưởng phúc vô biên;
Gặt vinh quang, hàng phụ nữ kiên cường  lãnh ơn cao trọng.
Đấng Chứng nhân anh dũng;
Vị Tử Đạo kiêu hùng.

Trên ngai tòa Phê Rô:
Đức Pi Ô Thập, niên Kỷ Dậu  (1909) sắc phong Chân Phước huy hoàng;
Cha Giang Bảo Nhị, năm Mậu Thìn  (1988) tôn kính Thánh  Nhân vinh hiển.

Ngưỡng vọng:
Đoàn con kính nguyện;
Thánh Nữ cầu bầu.
Cho hậu thế hằng vững  tin sâu;
Học tiền nhân sống theo Thánh Ý.
                CÙ MÈ
                                  07-01-2013

(*) Thánh I Nê Đê (Lê thị Thành) sinh năm 1781 (Tân Sửu) thời  vua Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 42 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định,tỉnh Thanh Hóa.Thuở nhỏ đã theo mẫu thân về sinh sống tại quê  ngoại Xư Phúc Nhạc, Phát Diệm (Ninh Bình)
(**) Thánh nữ tử đạo (rũ tù) tại Nam Định ngày  12-07-1841 (Tân sửu) ,năm Thiệu Trị nguyên niên